Thứ Năm, 27 tháng 3, 2008

Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?



Các Bài giảng Wicksell

Năm 1958 Hội Bài giảng Wicksell [The Wicksell Lecture Society], với sự hợp tác của Viện Khoa học Xã hội thuộc Đại học Stockholm [the Social Science Institute of Stockhol University], Trường Kinh tế học Stockholm [the Stockholm School of Economics], và Hội Kinh tế Thuỵ Điển [Swedish Economic Association], đã khai trương loạt các bài giảng để tôn vinh và tưởng nhớ Knut Wicksell (1851-1926). Đến 1975 các bài giảng được trình bày hàng năm. Sau một thời kì tạm dừng loạt bài giảng lại được Hội Kinh tế Thuỵ Điển khai trương lại năm 1979. Bắt đầu với các bài giảng 1982, một tập các bài giảng được trình bày hai năm một.

Joseph E. Stiglitz

Lời giới thiệu của người dịch

Quyển sách này là quyển thứ 6 của tủ sách SOS2 do chúng tôi chọn và dịch ra tiếng Việt. Nó được Joseph Stiglitz viết hơn mười năm trước, vào những năm đầu của thời kì chuyển đổi, và được xuất bản đầu tiên năm 1994. Ông là người có công chính trong phát triển kinh tế học thông tin, và vì những cống hiến đó ông đã được giải Nobel kinh tế năm 2001. Trong cuốn sách này ông dùng những kết quả nghiên cứu của mình và của các cộng sự về kinh tế học thông tin để làm rõ hơn những vấn đề tranh luận lâu đời về các mô hình kinh tế, các hệ thống kinh tế, và trên cơ sở đó đưa ra những gợi ý chính sách cho các nền kinh tế chuyển đổi hậu xã hội chủ nghĩa.

Ông phê phán các lí thuyết kinh tế tân cổ điển, mô hình xã hội chủ nghĩa thị trường và mô hình thị trường cạnh tranh truyền thống dựa trên lí thuyết đó, làm rõ hơn những điểm mạnh điểm yếu của các hệ thống kinh tế. Ông gợi ý những chính sách kinh tế cho các nền kinh tế chuyển đổi.

Phê phán và đánh giá của ông khá cân bằng và khách quan trên cơ sở những kết quả mới nhất trong nghiên cứu kinh tế. Độc giả của tủ sách SOS2 sẽ thấy cuốn sách này rất lí thú, nhất là sau khi đã đọc các cuốn sách khác của tủ sách, đặc biệt là hai cuốn đầu của Kornai.

Joseph Stiglitz đã từng là cố vấn kinh tế của tổng thống Clinton, là Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới. Ông đã thường xuyên thảo luận các vấn đề kinh tế chuyển đổi với các học giả và quan chức Trung Quốc và các nước Đông Âu từ đầu những năm 1980, và cho các nhà hoạch định chính sách những lời khuyên bổ ích. Việt Nam đã bắt đầu công cuộc chuyển đổi hơn mười lăm năm nay. Từ giữa các năm 1990 Ông đã vài lần đến Việt Nam; Chính phủ Việt Nam dường như đánh giá cao những lời khuyên của Ông.

Với các độc giả Việt Nam cuốn sách vẫn có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nó không chỉ mang đến cho chúng ta những suy ngẫm sâu xa liên quan đến nội dung các cuộc tranh luận lâu đời về các mô hình kinh tế, những vấn đề học thuật uyên thâm, mà còn mang tính thời sự nóng hổi cho công cuộc đổi mới đất nước. Trước hết nó, cũng như cuốn “Hệ thống Xã hội chủ nghĩa” của Kornai, giúp chúng ta hiểu rõ hơn lịch sử kinh tế của mình trong hơn nửa thế kỉ qua, hiểu rõ hơn những vấn đề hiện tại, và hi vọng góp phần quan trọng trong định ra các bước đi thích hợp trước mắt và lâu dài.

Cuốn sách không chỉ bổ ích cho các học giả, các nhà hoạch định chính sách, mà cũng rất bổ ích cho các nhà doanh nghiệp, các nhà báo, sinh viên và những người quan tâm khác.

Tuy bàn luận về những vấn đề lí thuyết sâu xa, song cuốn sách không dùng đến những kiến thức toán học cao siêu, nên có thể dễ đọc hơn với quảng đại bạn đọc. Tuy vậy, đây là cuốn sách chuyên khảo, cần phải có những hiểu biết nhất định mới có thể hiểu được. Có một vài thuật ngữ toán (kinh tế) có thể lạ tai đối với một số bạn đọc (thí dụ như tính lồi [convexity], tính không lồi [nonconvexity], tuyến tính [linearity], phi tuyến [nonlinearity], v.v) bạn đọc nên xem lại các khái niệm toán sơ cấp hay cao cấp liên quan. Có một vài thuật ngữ kinh tế, như rent [tiền thuê, tô] đôi khi được dịch nhất quán là “đặc lợi” cho phù hợp với rents seeking [tìm kiếm đặc lợi]; hoặc polyarchy [(đa?) thứ bậc] lại được dùng nhất quán là phi thứ bậc để đối lập với hiearchy [hệ thống thứ bậc], có thể gây khó chịu cho một số độc giả. Tất cả những điểm như vậy đều có đánh dấu sao (*) ở các chỗ thích hợp. Mọi chú thích đánh số đều là của tác giả, các chú thích đánh dấu sao (*) là của người dịch. Để tránh những khó khăn trên, và giúp việc nghiên cứu được thuận tiện phần chỉ mục [index] tỉ mỉ về các khái niệm, dẫn chiếu chúng tôi kèm cả thuật ngữ tiếng Anh để tiện dùng.

Do hiểu biết có hạn của người dịch, bản dịch chắc còn nhiều sai sót, mong bạn đọc lượng thứ và chỉ bảo. Mọi góp ý xin gửi về Tạp chí Tin Học và Đời Sống 25/B17 Hoàng Ngọc Phách [Nam Thành Công] Hà Nội, thds@hn.vnn.vn, hoặc nqa@netnam.vn.

Hà nội 11-2003
Nguyễn Quang A

ĐỌC TOÀN VĂN

Tham khảo thêm

Mô hình Kornai về các hệ thống kinh tế



Bài học chuyển đổi ở Đông Âu

Phân chia trước năm 1989 giữa "Tây" (màu xám) và "Khối Đông" (màu cam) chồng lên biên giới hiện thời: Nga (màu cam xẫm), các quốc gia khác xưa kia thuộc Liên Xô (màu cam trung bình), các thành viên của Khối Warszawa (màu cam lợt), và những chính thể cựu cộng sản khác không liên kết với Moskva (màu cam lợt nhất).
Phân chia trước năm 1989 giữa "Tây" (màu xám) và "Khối Đông" (màu cam) chồng lên biên giới hiện thời: Nga (màu cam xẫm), các quốc gia khác xưa kia thuộc Liên Xô (màu cam trung bình), các thành viên của Khối Warszawa (màu cam lợt), và những chính thể cựu cộng sản khác không liên kết với Moskva (màu cam lợt nhất).

Lời giới thiệu

Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ mười sáu [1] của tủ sách SOS2, cuốn B� i học Chuyển đổi ở Đông Âu gồm 6 tiểu luận của Kornai János. Đây là cuốn sách thứ năm của Kornai trong tủ sách này và là cuốn thứ sáu của Kornai bằng tiếng Việt. Đây là các bài viết của Kornai đánh giá về chuyển đổi hậu xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, nêu những b� i học có thể rút ra trong 15 năm phát triển vừa qua của khu vực này. Nhiều bài học của khu vực đó cũng rất bổ ích cho nền kinh tế chuyển đổi của chúng ta.

Mở đầu là bài trình bày của ông tại Hà Nội khi ông thăm Việt Nam lần đầu tiên tháng 3-2001. Ông nêu ra 10 bài học ở đây.

Tiếp đến là bà i viết của ông giới thiệu những kết quả của dự án nghiên cứu quốc tế về “Tính trung thực và niềm tin” được tiến h� nh tại Collegium Budapest đầu các năm 2000 và tuyển tập những nghiên cứu nà y được xuất bản năm 2004.

Bài thứ ba là một bài báo phân tích về sự thay đổi hệ thống từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa tư bản có nghĩa là gì và không có nghĩa là gì, được công bố năm 2000, dựa trên một cuốn sách nhỏ của ông in năm 1998 tại Anh.

Bà i thứ tư là bà i phát biểu của ông với tư cách Chủ tịch Hội Kinh tế Thế giới, đọc tại Đại hội năm 2005 ở Maroc.

Bà i thứ năm bàn về những cải cách điều chỉnh do chính phủ Hungary đưa ra tháng 6-2006, bàn về điều chỉnh, cân bằng và tăng trưởng. Tuy nói về tình hình Hungary nhưng chứa nhiều bài học phổ quát.

Bài cuối cùng là bài viết năm 1996 của ông đánh giá những biện pháp điều chỉnh lớn của Hungary đưa ra hơn một năm trước đó.

Lẽ ra có thể đưa cả bài đánh giá cuốn Con đường tới nền kinh tế tự do sau 10 năm nhìn lại vào tuyển tập này, song do đã được in như phần cuối của cuốn Con đường trong ấn bản tiếng Việt nên chúng tôi không đưa vào đây.

Có thể nói những bài học chuyển đổi của Đông Âu cũng có thể rất bổ ích với chúng ta. Chúng ta có thể học được những bà i học thành công và cả các bài học thất bại để tránh. Bất chấp sự khác biệt về lịch sử, về địa lí và văn hóa, nhưng do cùng có quá khứ kinh tế giống nhau, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nên các bài học là rất đáng suy nghĩ đối với chúng ta.

Tôi nghĩ cuốn sách rất bổ ích cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh tế học, các nh� nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, các sinh viên và tất cả những ai quan tâm đến chuyển đổi hậu xã hội chủ nghĩa.

Người dịch đã cố hết sức để làm cho bản dịch được chính xác và dễ đọc, song do hiểu biết có hạn nên khó thể tránh khỏi sai sót.

Mọi chú thích cuối sách của tác giả được đánh bằng số. Các chú thích cuối trang được tác giả đánh dấu bằng số Ảrập. Tất cả các chú thích đánh sao (*) ở cuối trang là của người dịch. Bản dịch chắc còn nhiều thiếu sót mong bạn đọc thông cảm, lượng thứ, và chỉ bảo; xin liên hệ theo địa chỉ Tạp chí Tin học và Đời sống, 66 Kim Mã Thượng Hà Nội, hoặc qua điện thư thds@hn.vnn.vn hay nqa@netnam.vn

08-2006
Nguyễn Quang A

Toàn văn

Chủ nghĩa cộng sản




Lời nói đầu


Đây là cuốn sách nhập môn và đồng thời cũng là lời ai điếu cho chủ nghĩa cộng sản. Vì rõ ràng rằng nếu một lúc nào đó trong tương lai, việc tìm kiếm một sự bình đẳng hoàn toàn, một tư tưởng từ thời cổ đại đã thúc đẩy các chiến sĩ đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản không tưởng, có được tái tục thì cơ sở của những sự tìm kiếm như thế sẽ không phải là chủ nghĩa Marx-Lenin nữa. Chủ nghĩa này đã không còn một chút hấp dẫn nào, ngay cả những người cộng sản thời hậu Xôviết ở Nga cũng như tại nhiều nước khác, trong các chiến dịch tranh cử, đã phải thay nó bằng cương lĩnh dân chủ xã hội pha trộn thêm màu sắc dân tộc chủ nghĩa. Vì thế hôm nay chúng ta đã có đủ điều kiện lập bảng tổng kết cái phong trào đã từng giữ thế thượng phong trong suốt thế kỉ XX và xác định xem liệu sự sụp đổ của nó có phải là hậu quả của những sai lầm của một số người nào đó hay đây là kết quả của những khiếm khuyết trong chính bản chất của nó.

Từ chủ nghĩa cộng sản xuất hiện ở Paris vào năm 1840, liên quan đến ba khái niệm khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với nhau: lí tưởng, cương lĩnh hành động và chế độ nhận lãnh trách nhiệm biến lí tưởng thành hiện thực.

Lí tưởng bình đẳng tuyệt đối (thí dụ trong một số trước tác của Platon) đòi hỏi cá nhân phải tan biến vào tập thể. Vì bất bình đẳng về mặt xã hội và kinh tế có nguyên nhân chủ yếu từ sự bất bình đẳng về tài sản, muốn bình đẳng thì từng người phải từ bỏ “của tôi” và “của anh”, nói cách khác từ bỏ tư hữu. Lí tưởng này có nguồn gốc lịch sử lâu đời và thỉnh thoảng lại tái xuất hiện trong lịch sử tư tưởng phương Tây, kể từ thế kỉ thứ VII trước công nguyên cho đến tận ngày nay.

Cương lĩnh cộng sản xuất hiện vào khoảng giữa thế kỉ XIX và gắn bó trước hết với tên tuổi của Karl Marx và Friedrich Engels. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848, Marx và Engels viết: “những người cộng sản có thể tuyên bố học thuyết của mình bằng một câu thôi: bãi bỏ tư hữu”. Engels khẳng định rằng bạn ông đã đưa ra một lí thuyết khoa học chứng minh tính tất yếu của sự cáo chung của những xã hội dựa trên khác biệt về mặt giai cấp.

Mặc dù trong lịch sử loài người lí tưởng cộng sản cũng đã đôi ba lần được đưa ra thực hiện, nhưng sử dụng toàn bộ sức mạnh của nhà nước cho một thí nghiệm như thế chỉ mới được thực hiện lần đầu tiên ở nước Nga từ năm 1917 đến năm 1991. Vladimir Lenin, người sáng lập chế độ đó, cho rằng đấy là một xã hội bình đẳng, không còn tư hữu, sinh ra nhờ chuyên chính vô sản, một nền chuyên chính gánh trên vai trách nhiệm bãi bỏ tư hữu và đặt nền móng cho con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản.

Chúng ta sẽ theo dõi chủ nghĩa cộng sản theo đúng trình tự như thế vì như thế là hợp lôgích và vì chủ nghĩa này cũng xuất hiện theo trình tự: đầu tiên là lí tưởng, sau đó là kế hoạch thực hiện và cuối cùng là biến lí thuyết thành hiện thực. Nhưng chúng ta sẽ quan tâm chủ yếu đến việc thực hiện bởi vì tự bản thân lí tưởng và cương lĩnh là những thứ vô hại, trong khi việc thực hiện chúng, nếu lại sử dụng toàn bộ sức mạnh của nhà nước, có thể dẫn tới những hậu quả không thể lường được.


Bản tiếng việt
Bản tiếng Nga

Thứ Ba, 25 tháng 3, 2008

Con Đường Dẫn Tới Chế Độ Nông Nô - Hayek


Friedrich von HayekFriedrich August von Hayek (8 tháng 5 năm 1899 – 23 tháng 3 năm 1992) là một nhà kinh tế học và nhà khoa học chính trị người Anh gốc Áo nổi tiếng.

Hayek được biết đến qua lập luận ủng hộ cho chủ nghĩa tư bản trên thị trường tự do để chống lại các tư tưởng xã hội chủ nghĩa đang phát triển trong thế kỷ 20. Ông và người đối nghịch tư tưởng là Gunnar Myrdal đã nhận giải Nobel Kinh tế trong năm 1974.

Tiểu sử

Hayek sinh tại Wien trong một gia đình trí thức có tiếng. Tại Đại học Wien, nơi ông nhận các bằng tiến sĩ trong năm 1921 và 1923, ông đã học luật, tâm lý và kinh tế. Tuy lúc ban đầu có đồng tình với chủ nghĩa xã hội, lối suy nghĩ về kinh tế của ông đã thay đổi trong những năm còn là sinh viên khi ông tiếp cận với những tác phẩm của Ludwig von Mises.

Hayek đã làm phụ tá nghiên cứu cho Giáo sư Jeremiah Jenks tại Đại học New York từ 1923 đến 1924. Sau đó ông là giám đốc của Viện Nghiên cứu Kinh tế Áo trước khi dạy tại Trường Kinh tế Luân Đôn trong năm 1931. Không muốn trở về nước sau khi Áo sát nhập vào nước Đức Quốc Xã, ông trở thành một công dân Anh năm 1938.

Trong đầu thập kỷ 1940, Hayek trở thành một nhà lý luận kinh tế hàng đầu. Sau khi Đệ nhị thế chiến kết thúc, các học thuyết laissez-faire mà ông đề xướng không được John Maynard Keynes và một số nhà kinh tế học khác thừa nhận, những người chủ trương nhà nước phải can thiệp chủ động vào kinh tế quốc gia. Cuộc tranh cãi giữa 2 trường phái cho đến nay vẫn chưa kết thúc mặc dầu quan điểm của Hayek được chấp nhận nhiều hơn từ cuối thập niên 1970. Sau khi không được một trường kinh tế của một trường đại học nổi tiếng nào nhận làm, ông trở thành giáo sư trong Ủy ban Tư tưởng Xã hội tại Đại học Chicago. Ông làm việc tại đó từ 1950 đến 1962. Từ 1962 cho đến khi ông về hưu trong 1968, ông làm giáo sư tại Đại học Tổng hợp Albert-Ludwig Freiburg. Sau đó ông là một giáo sư danh dự (honorary professor) tại Đại học Tổng hợp Paris-Lodron Salzburg. Ông qua đời năm 1992 tại Freiburg, Đức.

Sự Nghiệp

Chu kỳ kinh doanh
Các tác phẩm của Hayek về tư bản, tiền và chu kỳ kinh doanh được xem là những đóng góp đến môn kinh tế quan trọng nhất của ông. Trước đây Ludwig von Mises đã giải thích lý thuyết về tiền tệ và ngân hàng trong quyển Theorie des Geldes und der Umlaufsmittel (Lý thuyết về tiền và tín dụng) (1912).

Vấn đề tính toán kinh tế

Hayek là một trong những người chỉ trích hàng đầu của chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ 20. Trong quyển sách được nhiều người đọc Con đường dẫn tới chế độ nông nô (The Road to Serfdom, 1944) và nhiều tác phẩm sau, Hayek đã tuyên bố rằng chủ nghĩa xã hội có khả năng dẫn đến chế độ cực quyền cao, vì các kế hoạch trung ương không chỉ hạn chế trong nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Hayek còn cho rằng trong các nền kinh tế được lập kế hoạch ở trung ương, một cá nhân hay một nhóm cá nhân phải định đoạt sự phân chia nguồn lực, nhưng những nhà kế hoạch không bao giờ có đủ thông tin để phân chia chính xác được.


Ảnh hưởng

Ông được đánh giá là người có ảnh hưởng sâu sắc lên các thế hệ kế tiếp nhau của các nhà trí thức và chính trị gia, đặc biệt là qua tác phẩm Con đường dẫn tới chế độ nông nô. Cuốn sách đã đem lại cảm hứng đồng thời gây tức giận dữ dội cho rất nhiều trí thức, học giả, chính trị gia trong suốt sáu mươi năm qua. Tuy nhiên, số người bị cuốn sách chọc tức ngày nay đã chẳng còn mấy.

Những bài viết của Hayek đặc biệt là tác phẩm Con đường dẫn tới chế độ nông nô là một nguồn trí tuệ quan trọng của sự tan rã của niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản. Khi xuất bản cuốn này, ông bị nhiều người xem là "phạm húy" khi gợi ý rằng chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản chỉ đơn thuần là hai biến thể của cùng chủ nghĩa chuyên chế mà ở đó tập trung mọi hoạt động kinh tế. Ngày nay, điều này trở thành hầu như bình thường.

Trong tác phẩm ông nêu lên sự khác biệt giữa kế hoạch hóa và dân chủ:

"Có một sự khác biệt căn bản giữa kế hoạch hóa chuyên chế và dân chủ. Kế hoạch hóa chuyên chế đặt mọi nguyện vọng và sở thích cá nhân xuống dưới yêu cầu của nhà nước. Để đạt mục đích này nó sử dụng các phương pháp khác nhau cưỡng bức cá nhân, tước đoạt quyền tự do lựa chọn của cá nhân".

Phê bình

Hầu như không quá khi nói rằng, thế kỷ XX là thế kỷ Hayek.
John Cassidy, The New Yorker, 07/02/2000
Hoàn toàn có thể là kinh tế học của thế kỷ 21 sẽ còn chịu ảnh hưởng của Hayek nhiều hơn kinh tế học của thế kỷ 20.
Bruce Caldwell, Chủ tịch Hội Nghiên cứu Lịch sử Kinh tế học (History of Economics Society), ngày 2 tháng 7, 2000"

Theo Wikipedia

dow load: http://ifile.it/2o64slz

Quyền lực của không quyền lực - Vaclav Havel

Đây là một cuốn sách thú vị cho những ai yeu thích tìm hiểu những gì diễn ra trên thế giơi ngày nay...

Bằng Sức mạnh Tư duy




Các quyển trước gồm:

1. J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002.

2. J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002

3. J. Kornai- K. Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002

4. J. Kornai: Bài học chuyển đổi ở Đông Âu

5. G. Soros: Giả kim thuật tài chính

6. G. Soros: Xã Hội Mở & Cải cáh CNTB toàn cầu

7. George Soros: Xã hội mở

8. H. de Soto: Sự bí ẩn của tư bản (Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004)

9. J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?

10. F. A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô

11. Karl R.Popper: Sự khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử

12. : Karl R.Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó

13. Thomas S. Kuhn: Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học

14. Thomas L. Freedman:. The World is Flat - Thomas L.Friedman

15. Nguyễn Quang A Một năm của Hội nghị Diên Hồng Hungary

16.Václav Havel: Quyền lực của Không Quyền lực Khải Minh dịch và giới thiệu

17.Milovan Djilas :Giai cấp mới Phạm Minh Ngọc dịch

18. Milovan Djilas:Nói chuyện với Stalin Phạm Minh Ngọc dịch





LỜI GIỚI THIỆU


Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ mười lăm+ của tủ sách SOS2, cuốn Bằng Sức mạnh Tư duy - tiểu sử tự thuật đặc biệt của Kornai János. Đây là cuốn sách thứ tư của Kornai trong tủ sách này và là cuốn thứ năm của Kornai bằng tiếng Việt. Hồi kí của Kornai đặc biệt theo nhiều nghĩa: nó nói về bản thân tác giả, như mọi hồi kí khác, song chỉ nói về các công trình chính của ông; về quá trình chuyển biến tư duy qua từng thời kì, qua từng tác phẩm của ông; về cảm nhận của ông với thời cuộc liên quan đến các vấn đề mà ông nghiên cứu, đến những sự kiện mà ông đã trải qua, đến những nơi mà ông đã đến; về việc nghiên cứu chính nội tâm của ông, đánh giá lại các công trình của ông một cách phê phán.

Những ai đã đọc Kornai, có thể được nhiều thông tin bổ ích khác liên quan đến các công trình của ông, mà khi viết các công trình đó ông không thể trình bày (vì tự kiểm duyệt, vì không hợp với thể loại, và vì các lí do khác). Những người chưa đọc Kornai có thể có được bức tranh khái quát về toàn bộ sự nghiệp nghiên cứu khoa học và hoạt động xã hội của ông, về con người ông, và sau đó có thể có hứng thú để tìm đọc các tác phẩm chuyên môn sâu hơn của ông.

Là người suốt đời nghiên cứu hệ thống xã hội chủ nghĩa và kinh tế học so sánh, ông hiểu rất kĩ hệ thống này. Hơn 15 năm qua ông nghiên cứu về chuyển đổi hậu xã hội chủ nghĩa. Ông đã từng làm báo của đảng cộng sản 6 năm, sau đó ông chuyển hẳn làm khoa học, làm nhà giáo. Ông là người trong cuộc, chính vì thế các tác phẩm của ông rất gần gũi với những người đã từng sống trong các nước xã hội chủ nghĩa trước kia, hay đang còn sống trong các nước xã hội chủ nghĩa chuyển đổi. Và như thế đối với cả người Việt Nam chúng ta nữa. Qua hồi kí của ông nhiều trí thức Việt Nam có thể cũng nhìn thấy mặt nào đó của tình cảnh trái ngược của chính mình nữa. Đấy là những cái làm cho cuốn sách hấp dẫn, là cái khiến tôi dịch cuốn hồi kí này để nó có thể đến tay bạn đọc Việt Nam. Nguyên bản tiếng Hungary, mà bản tiếng Việt dựa vào, được xuất bản năm 2005, bản tiếng Anh với nhan đề By Force of Thought. Irregular Memoirs of an Intellectual Journey. Cambridge: The MIT Press, sẽ ra trong năm nay, 2006.

Tôi nghĩ cuốn sách rất bổ ích cho các nhà chính trị, các nhà kinh tế học, các nhà nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, các nhà giáo, các nhà báo, các sinh viên và tất cả những ai quan tâm đến hệ thống xã hội chủ nghĩa và chuyển đổi hậu xã hội chủ nghĩa, đến nghiên cứu khoa học, đến giáo dục đào tạo, đến nghề báo, những người đã đọc hay chưa đọc các công trình khác của Kornai.

Người dịch đã cố hết sức để làm cho bản dịch được chính xác và dễ đọc, song do hiểu biết có hạn nên khó thể tránh khỏi sai sót.

Mọi chú thích cuối sách của tác giả được đánh bằng số. Các chú thích cuối trang được tác giả đánh dấu *. Vì thế ngược với truyền thống của tủ sách SOS2, người dịch không còn thể dùng dấu * để chỉ các chú thích của mình trong cuốn sách này. Tất cả các chú thích đánh cộng (+) ở cuối trang là của người dịch. Bản dịch chắc còn nhiều thiếu sót mong bạn đọc thông cảm, lượng thứ, và chỉ bảo; xin liên hệ theo địa chỉ Tạp chí Tin học và Đời sống, 66 Kim Mã Thượng Hà Nội, hoặc qua điện thư thds@hn.vnn.vn hay nqa@netnam.vn


07-2006
Nguyễn Quang A




Toàn văn tác phẩm “A GONDOLAT EREJÉVEL” của tác giả Kornai János do GS. TSKH Nguyễn Quang A dịch sang tiếng Việt và xuất bản.

Để đảm bảo tính nguyên bản của tài liệu mà tôi đã nhận được (dài 375 trang), tôi xin chia thành các phần, chuyển sang dạng Adobe Reader (xxx.pdf) và gửi lên.

Sau đây là các phần liên tiếp của tác phẩm với tiêu đề tiếng Việt: BẰNG SỨC MẠNH
TƯ DUY (tiêu đề của các phần sau này đồng thời là tên của chương trong tác phẩm).

1. GIA ĐÌNH, TUỔI NIÊN THIẾU/1928-1944 (16..32)

2. TÔI TRỞ THÀNH NGƯỜI CỘNG SẢN NHƯ THẾ NÀO?/1945-1947 (33..47)

3. TRONG BAN BIÊN TẬP TỜ SZABADNÉP/1947-1955 (48..60)

4. BẮT ĐẦU THỨC TỈNH/1953-1955 (61..73)

5. BẮT ĐẦU CON ĐƯỜNG NGHIÊN CỨU/1955-10/1956 (74..96)

6. CÁCH MẠNG VÀ CÁI XẢY RA SAU ĐÓ/23/10/1956-1959 (97..116)

7. CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI/ 1957-1959 (117..126)

8. ỨNG DỤNG KINH TẾ CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP TOÁN HỌC/ 1957-1968 (127..148)

9. HÀNH TRÌNH SANG PHƯƠNG TÂY/ 1963- (149..164)

10. BƠI NGƯỢC DÒNG/ 1967-1970 (165..183)

11. VIỆN, ĐẠI HỌC, VIỆN HÀN LÂM/ 1967- (184..198)

12. TÌM ĐƯỜNG VÀ CHUẨN BỊ/ 1071-1976 (199..215)

13. BỨC TRANH HÌNH THÀNH/ 1976-1980 (216..232)

14. SỰ ĐỘT PHÁ/ 1979- (233..246)

15. VỚI SỰ PHÊ PHÁN THÂN THIỆN, GIỮ KHOẢNG CÁCH/ 1968-1989 (247..262)

16. HAVARD/ 1984-2002 (263..277)

17. Ở TRONG NƯỚC TẠI HUNGARY, Ở NHÀ KHẮP THIÊN HẠ/ 1985- (278..295)

18. TỔNG HỢP/ 1988-1993 (296..308)

19. BƯỚC NGOẶT ĐỔI ĐỜI/ 1989-1992 (309..325)

20. TRÊN RANH GIỚI CỦA KHOA HỌC VÀ CHÍNH TRỊ/ 1990- (326..342)

21. TIẾP TỤC, CÁI TÔI ĐÃ LÀM ĐẾN NAY/ 1990- (343..373)




Những cảm nhận nho nhỏ khi đọc "Bằng sức mạnh tư duy".

Trước hết, xin cảm ơn vnkatonak.com và đặc biệt là dịch giả Nguyễn Quang A đã tạo điều kiện cho chúng tôi được tiếp xúc với cuốn hồi ký (theo như tác giả tự nhận, thuộc thể loại rendhagyó, không giống với các cuốn hồi ký thông thường khác, vì hồi ký có xen lẫn những tiểu luận khoa học). Quả thực, trước đây anh Quang A đã dịch một số tác phẩm khác (cùng một tác giả) ra tiếng Việt, song tôi chưa đọc hết, phần vì mình lười, phần vì tác giả viết về vấn đề lớn quá, phông kiến thức của mình hạn hẹp, đọc cực kỳ vất vả (đọc bằng tiếng Hung hay tiếng Anh, chắc còn đau đầu hơn nữa). Rolling Eyes . Sau khi đọc cuốn Hồi ký, thấy một vài ý sáng ra: thấy rõ hơn trình tự thai nghén và xuất xứ của loạt tác phẩm của Kornai, thấy một số quan hệ hữu cơ giữa các tác phẩm với nhau.

Qua Hồi ký, tôi nhận thấy tác giả đã vẽ lại, phác họa một số quang cảnh của lịch sử đất nước Hung-ga-ri những năm 1945-1956, một thời kỳ đau thương bi tráng mà các sách giáo khoa của Hung cũng như Việt Nam mô tả rất khác. (Thiết nghĩ, các bạn đang đọc "Nhân chứng" của AK_63 nên tham khảo thêm Hồi ký). Nếu Kornai cũng có năng khiếu văn học như nhà thơ Pa-xtéc-nắc (cũng là gốc Do thái) thì tôi tin là Hung sẽ có một giải Nô-ben văn học, vì sẽ phải có một "Bác sĩ Zi-va-gô" theo kiểu Hung. Hoặc, hy vọng một cách thực tế hơn, tôi chờ đợi một ngày nào đó, một đạo diễn (Hung, Việt nam !?) sẽ làm một bộ phim tuyệt vời, dựa trên 5 chương đầu của Hồi ký.

Cùng với Thao thức của Alekxandr Kron, Những đứa con phố Ác-bát, của Liên Xô, Thời xa vắng (VN),... tôi nghĩ Hồi ký đã ghi nhận những dấu ấn sinh động về công cuộc xây dựng CNXH ở các nước XHCN.

Tôi thú vị về cách phân loại đảng viên theo 5 mức:
..............+ Mức 1: cảm tình đảng
..............+ Mức 2: đảng viên bình thường
..............+ Mức 3: đảng viên tích cực và có niềm tin cộng sản
..............+ Mức 4: đảng viên chân chính
..............+ Mức 5: người lính của đảng, cán bộ đảng chuyên nghiệp
và ngạc nhiên, khi tác giả tự đánh giá "đã trải qua đủ cả 5 mức".

Tôi cũng thú vị về cách phân loại quan hệ của nhà nước và các xí nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế XHCN:
..............+ Mức 1: bố mẹ trợ cấp 100% cho trẻ sơ sinh ("con ơi, dù con không muốn, con vẫn phải nhận")
..............+ Mức 2: bố mẹ và trẻ con đi học mẫu giáo (thỉnh thoảng hỏi ý kiến xem "thích đồ chơi gì, thích ăn gì")
..............+ Mức 3: bố mẹ và học sinh tiểu học (đôi lúc thí cho con vài đồng tiền lẻ, "mày muốn mua gì thì mua")
..............+ Mức 4: bố mẹ và học sinh đại học ("tao chu cấp tiền, mày tự lo mua lấy đồ ăn, con nhé")
..............+ Mức 5: con đã tốt nghiệp đại học, đi làm ("nghỉ cho khỏe", bố mẹ không đủ sức chu cấp nữa)

Cái đuôi -val, -vel của tiếng Hung rất hay. Tiêu đề "Bằng sức mạnh tư duy" có thể hiểu là: (Với) sức mạnh tư duy, và (Nhờ) sức mạnh tư duy, (Dùng) sức mạnh tư duy. Còn một vài nghĩa nữa: sát cánh cùng, cùng, trợ giúp bởi, chắp cánh cùng... Không dám lạm bàn thêm.

Xin mạo muội đưa ra một số tóm tắt ngắn gọn chủ quan cho những ai còn đang e ngại "phung phí thời gian đọc sách".

1. GIA ĐÌNH, TUỔI NIÊN THIẾU/1928-1944 (từ trang 16 đến trang 32)
- Nguồn gốc gia đình:
..............+ Ông nội, người gốc Do thái, làm thợ nguội cả, từng làm cầu.
..............+ Bố học trường dòng, đại học luật, rồi làm luật sư. Cố vấn pháp lý của Đại sứ quán Đức tại Budapest. Không nhận vụ án li dị, vụ án hình sự. Không đại diện cho bất cứ hãng nào của Hung. Không muốn tham gia tích cực vào bất cứ đảng hay phong trào chính trị nào. Không từ chối nguồn gốc Do thái, song không do dự, luôn tự nhận mình là người Hung.
..............+ Mẹ - ở nhà nội trợ.
..............+ Có hai anh trai và một chị gái.
..............+ Nhà ở nội thành (phố Akadémia), có biệt thự riêng trên đồi Hoa Hồng.
..............+ Gia đình có truyền thống coi trọng văn học.
- Tuổi niên thiếu: học tại trường Đế chế Đức, giảng dạy chủ yếu bằng tiếng Đức, trừ môn tiếng Hung, lịch sử Hung và văn học Hung.
- Giỏi môn Toán và Vật lý.

Xem chi tiết tại:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-01.pdf

2. TÔI TRỞ THÀNH NGƯỜI CỘNG SẢN NHƯ THẾ NÀO?/1945-1947 (33..47)
- Chế độ phát xít nổi lên ở Đức và lan sang Hung đã ảnh hưởng tới gia đình ông (gốc Do thái).
- Năm 1944, bố bị bắt đi tập trung, anh cả bị bắt đi phục vụ ở Nga, anh thứ hai phục vụ ở Nam Tư. Mẹ và chị gái bị bắt đi làm ở nhà máy gạch.
- Bản thân bị "bắt lính", sống khổ sở, đói rét và suýt chết.
- Năm 1945, Liên Xô giải phóng Budapest, chính quyền mới được thiết lập.
- Hăng hái tham gia phong trào của Liên đoàn Dân chủ Thanh niên Hung-ga-ri, trở thành đối tượng Đảng, rồi mau chóng trở thành Đảng viên tích cực.
- Khâm phục Stalin, tìm đọc sách triết học của Stalin.
- Đã đọc nguyên bản Tư bản luận của Marx theo cách "uống từng dòng chữ" và cố gắng hiểu thật kỹ tác phẩm kinh điển này.

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-02.pdf

3. TRONG BAN BIÊN TẬP TỜ SZABADNÉP/1947-1955 (48..60)
- Về công tác ở tòa soạn báo Szabad Nép, cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản. Khởi đầu là phóng viên "bất đắc dĩ", viết phóng sự về gặt lúa. Năm 21 tuổi, lãnh đạo chuyên mục về kinh tế. Hăng hái phát biểu khi đi học khóa bồi dưỡng ở trường Đảng cao cấp.
- Được hưởng chế độ ưu đãi cao cấp "3K": khu nghỉ mát trên núi Kékestető, bệnh viện ưu đãi ở phố Kútvölgyi, và nhà tang lễ cao cấp ở đường Kerepesi.
- Tháp tùng các "sếp" cao cấp của Đảng và Chính phủ đi nước ngoài (Đức) năm 1952.
- 6 năm đầu hiến dâng toàn bộ sức lực và tinh thần cho tờ báo (vợ đẻ vẫn tích cực đi trực ở cơ quan). Mad
- 2 năm sau bị thất sủng nghiêm trọng (xem chương tiếp theo).

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-03.pdf

4. BẮT ĐẦU THỨC TỈNH/1953-1955 (61..73)
- 1953, Stalin qua đời, tình hình chính trị ở Hung có biến động lớn. Điều này đã ảnh hưởng tới nhận thức về Đảng của một thanh niên trẻ tuổi.
- Niềm tin mãnh liệt bị lung lay mạnh khi chứng kiến những việc "người thật việc thật" của một số elvtárs.
- Không tuân theo mệnh lệnh cấp trên khi viết bài báo giải thích, phân tích nguyên nhân tại sao người ta cắt điện vô tội vạ.
- Viết bài điểm sách của Nagy Imre. Quyết định đi theo đường lối của Nagy Imre, đối thủ chính trị của Rákosi Mátyás.

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-04.pdf

5. BẮT ĐẦU CON ĐƯỜNG NGHIÊN CỨU/1955-10/1956 (74..96)
- Tòa báo Szabad Nép bị giải tán, "trôi dạt" về Viện khoa học kinh tế.
- Trước đó, năm 1952 đã đi học đại học, nhưng bỏ dở.
- Năm 1956, hoàn thành luận án phó tiến sĩ ở Đại học Khoa học Kinh tế Karl Marx, mặc dù chưa tốt nghiệp đại học. Thầy hướng dẫn là người dịch Tư bản luận ra tiếng Hung (và học trò Kornai János là người viết bài điểm sách, vì hồi đó rất ít người dám nhận là "đã đọc kỹ Tư bản luận" để có thể làm được việc này).
- Bắt đầu xa rời các nguyên lý cơ bản của Tư bản luận. Mad . Tuy nhiên, trong một thời gian dài, vẫn vững tin là hệ thống XHCN có thể cải cách.
- Nội dung Luận án phó tiến sĩ Sự tập trung quá mức của chỉ đạo kinh tế. Ở đây, đã manh nha những ý kiến bàn về mối quan hệ giữa sự tập trung quá mức và sự thiếu hụt. Tác giả đã dùng các số đo thực tế để "cân đong đo đếm" chứ không dùng những mỹ từ chung chung khi bàn về kinh tế.
- Sau đó, luận văn được đem đến một nhà xuất bản để in thành sách, nhưng bị ngâm lại.
- Lãnh đạo nhóm biên soạn tài liệu cải cách kinh tế cho Đảng và Chính phủ, làm tiền đề cho đợt cải cách kinh tế 1968.
- Suy nghĩ về ranh giới giữa khoa học và chính trị.
- Quyết tâm đi theo con đường nghiên cứu khoa học (kinh tế).

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-05.pdf

6. CÁCH MẠNG VÀ CÁI XẢY RA SAU ĐÓ/23/10/1956-1959 (97..116)
- Cách mạng 1956. Xe tăng xô-viết trên đường phố Budapest.
- Nhà xuất bản Đại học Oxford (vương quốc Anh) đề nghị in cuốn sách Sự tập trung quá mức của chỉ đạo kinh tế.
- Nhà xuất bản Hung đồng ý in cuốn sách Sự tập trung quá mức của chỉ đạo kinh tế. Tác giả bị buộc tội "xét lại" (người phê phán lại chính là người đã khen ngợi hết lời một năm trước đây).
- Năm 1959, bị đuổi khỏi Viện khoa học kinh tế vì cuốn sách, và vì không chịu gia nhập đảng trở lại.
- Bị hỏi cung nhiều lần, vì đã tham gia giúp chuyển một ấn phẩm "phản cách mạng" sang phương Tây.
- Quyết định không di tản. Rolling Eyes

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-06.pdf

7. CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI/ 1957-1959 (117..126)
- Quá trình tự đào tạo theo chuyên ngành kinh tế phương Tây.
- Nghiền ngẫm các bài viết về cuộc tranh luận nảy lửa của các nhà kinh tế học phương Tây.
- Tiếp tục nghiên cứu về công nghiệp nhẹ với cường độ cao.
- Viết bài báo "Có cần chỉnh sửa phần hưởng lợi nhuận hay không?".

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-07.pdf

8. ỨNG DỤNG KINH TẾ CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP TOÁN HỌC/ 1957-1968 (127..148)
- Tự học các chương trình toán học cao cấp (đại số tuyến tính, quy hoạch tuyến tính) vì thấy cần cho kinh tế. Shocked
- Cộng tác với một nhà toán học ở Viện Toán viết bài gửi đăng ở tạp chí nước ngoài (phương Tây), không qua các khâu kiểm duyệt truyền thống. Bài viết được nhận lời đăng, không phải chỉnh sửa một từ nào (rất hiếm!).
- Tham gia giải bài toán quy hoạch ngành sợi bông (công nghiệp dệt) bằng máy tính điện tử ở Trung tâm tính toán thuộc Viện Hàn lâm khoa học Hung-ga-ri.
- Cuộc thi đua (ganh đua !?) giữa 2 trường phái: áp dụng quy hoạch tuyến tính và áp dụng mô hình input-output. Tưởng chừng như đây thuần túy là vấn đề chuyên môn, song nó cũng phản ánh những nhận thức khác nhau cơ bản, xét về mặt chính trị kinh tế học.
- Áp dụng quy hoạch tuyến tính cho việc lập kế hoạch cho nền kinh tế quốc dân: kích cỡ của bài toán tăng lên gấp 20-50 lần. Khó khăn hồi đó về mặt thực hiện các tính toán. Tuy nhiên, trong cái khó đã ló cái khôn. Nảy sinh ý tưởng thuật toán Kế hoạch hóa 2 mức.

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-08.pdf

9. HÀNH TRÌNH SANG PHƯƠNG TÂY/ 1963- (149..164)
- Sau nhiều lần xin xuất cảnh không thành công, cuối cùng, năm 1963 đã đặt chân được tới nước Anh. Những cảm xúc ban đầu về "chế độ tư bản chủ nghĩa giãy chết". Laughing
- Năm 1964, đến Trường Kinh tế học London để giảng dạy. 40 năm sau mới phát hiện ra bị "cớm" Hung theo dõi trong thời kỳ này.
- Tiếp tục bị bí mật theo dõi chặt chẽ khi trở về nước Hung. Cool

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-09.pdf

10. BƠI NGƯỢC DÒNG/ 1967-1970 (165..183)
- Suy nghĩ, trăn trở, đào sâu trong nghiên cứu. Viết Tiểu luận phản bác lại công trình nổi tiếng của những "cây đa cây đề". Thì ra, 2 mô hình toán học cực đoan đều không phản ánh đúng thực tế của kinh tế: tập trung quá cũng không được, mà phân tán quá cũng không được.
- Rất may, nhận được sự khích lệ của chính những người bị phê phán. Đó chính là bài học đạo đức trong khoa học.
- Phát triển tiểu luận này thành công trình Chống cân bằng, phê phán lý thuyết kinh tế học tân cổ điển nói chung, và lý thuyết cân bằng chung, chính là cái lõi của nó. Tác giả tự phê bình đối với công trình của mình (quan hệ giữa mô hình lý thuyết và các suy diễn của người áp dụng mô hình).
- Dám phê phán cả trường phái Kantorovich (giải thưởng Nô-ben về kinh tế học)
- Mô tả trạng thái "hối hận" và "sung sướng" khi viết công trình này.

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-10.pdf

11. VIỆN, ĐẠI HỌC, VIỆN HÀN LÂM/ 1967- (184..198)
- Được gọi trở lại công tác ở Viện khoa học kinh tế.
- Được mời đi báo cáo hội nghị, tham gia xê-mi-na, giảng dạy ở nước ngoài.
- Dự định cải cách Viện bằng cách đánh giá thang điểm cho các cán bộ theo số lượng và chất lượng công trình khoa học công bố. Không thành công. Crying or Very sad
- Là giáo sư danh dự ở Đại học Khoa học Kinh tế Karl Marx, nhưng không được mời tham gia giảng dạy.
- Trở thành thành viên được bầu của Viện Hàn lâm khoa học Mỹ, sau đó là Viện sĩ của Viện Hàn lâm khoa học Hung-ga-ri (nhờ có ý kiến "duyệt" của Kádár). Tuy nhiên, căn hộ không được mắc điện thoại. Mad

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-11.pdf

12. TÌM ĐƯỜNG VÀ CHUẨN BỊ/ 1071-1976 (199..215)
- Viết cuốn sách Tăng trưởng cưỡng ép hay hài hòa? phê phán nền kinh tế công nghiệp hóa XHCN.
- Giảng dạy tại Đại học Princeton 6 tháng.
- Cùng nhóm nghiên cứu viết bài báo Sự hoạt động thực vật của các hệ thống kinh tế (so sánh việc điều tiết kinh tế với hoạt động của hệ thống thần kinh điều tiết các hoạt động trong cơ thể cơn người). Sau đó phát triển, in thành sách Điều tiết mà không có báo hiệu giá.
- Viết bài báo Bộ máy thích nghi cọc cạch, bị đồng nghiệp "rỉa rói" mạnh mẽ, nhưng đó là liều thuốc tốt, vì nhờ thế, tác giả đã phát triển nâng cao thêm để sau này trở thành cuốn sách Sự thiếu hụt chín muồi hơn.

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-12.pdf

13. BỨC TRANH HÌNH THÀNH/ 1976-1980 (216..232)
- Năm 1976, được mời đi Thụy Điển 12 tháng "muốn làm gì thì làm". Sau đó tác giả yêu cầu thêm 3 tháng, họ lại "lập tức đồng ý". Trong một môi trường đầy cảm hứng như vậy, tác giả đã viết cuốn sách Sự thiếu hụt. (In ở Hung 3 lần, in bằng tiếng Anh ở Hà Lan, dịch ra tiếng Pháp, Ba Lan, và Trung Quốc). Tác giả thừa nhận bộ Tư bản luận của Marx đã truyền cảm hứng cho mình.
- Trong nền kinh tế thiếu hụt thì sự thiếu hụt sản phẩm, dịch vụ là kinh niên và sâu rộng. Thậm chí, mỉa mai thay, một lúc nào đó, nó trở thành "hiện tượng quá bình thường". Không ai muốn điều này, song, đây là lỗi hệ thống. Evil or Very Mad
- Nhờ khôn khéo, tác giả đã vượt qua sự kiểm duyệt (một phản biện là người bạn, còn một phản biện là một quan chức, nhưng thực ra, ông ta đã giao nhiệm vụ này cho thư ký. Kết quả là tác giả đưa bài viết sẵn của mình cho thư ký, thư ký đưa cho quan chức, quan chức "xem" và ký). Nhờ nắm rõ quy trình phản biện, tác giả đã "nghiến răng" cắt bớt đi Chương 23 của cuốn sách. Chỉ những bạn đọc nào tinh ý mới hiểu cuốn sách có thêm Chương này, song đã bị tác giả "tự kiểm duyệt", cắt bớt đi.
- Tranh luận với một nhà kinh tế học Liên Xô hàng đầu về cuốn sách này.
- Bàn về "chiến lược sống".

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-13.pdf

14. SỰ ĐỘT PHÁ/ 1979- (233..246)
- Nhờ các dữ liệu lưu trữ nhiều năm, công bố bài báo Tái phân chia lợi nhuận của các doanh nghiệp một cách quan liêu .
- Viết tiểu luận Ràng buộc ngân sách mềm. Đại ý, nền kinh tế XHCN cũng bó buộc các doanh nghiệp phải thế này, phải thế kia, ngân sách chỉ có bằng này thôi. Tuy nhiên, ở giai đoạn chót, lại xuất hiện "thuốc chữa". Vì vậy, nó không khuyến khích sản xuất mà khuyến khích các doanh nghiệp "quan hệ". Razz

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-14.pdf

15. VỚI SỰ PHÊ PHÁN THÂN THIỆN, GIỮ KHOẢNG CÁCH/ 1968-1989 (247..262)
- Cải cách kinh tế 1968.
- Tính hiệu quả và đạo đức XHCN.
- Vẫn bị công an mật theo dõi thường xuyên. Wink

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-15.pdf

16. HAVARD/ 1984-2002 (263..277)
- Những ấn tượng đẹp về những ngày làm giáo sư ở Đại học Ha-vớt.
- Hợp đồng với những điều khoản bất đối xứng: Đại học không được phép "bỏ rơi" giáo sư (trừ trường hợp đương sự vi phạm pháp luật, tất nhiên!). Tuy nhiên, giáo sư lại được quyền bỏ rơi đại học bất kỳ lúc nào, vì bất cứ lý do gì. Rolling Eyes
- Cách bổ nhiệm giáo sư ở đây thật chặt chẽ và độc đáo.

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-16.pdf

17. Ở TRONG NƯỚC TẠI HUNGARY, Ở NHÀ KHẮP THIÊN HẠ/ 1985- (278..295)
- Từ chối quốc tịch Mỹ. Sad . Đi đi về về giữa Đại Tây dương.
- So sánh cuộc sống "vương giả" bên đó với cuộc sống "tỉnh lẻ" ở Hung-ga-ri.

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-17.pdf

18. TỔNG HỢP/ 1988-1993 (296..308)
- Tổng kết 32 năm nghiên cứu của mình, viết ra tác phẩm "Hệ thống xã hội chủ nghĩa" đưa ra luận điểm: các cuộc cải cách nội bộ không có khả năng cứu hệ thống, mà ngược lại, làm xói mòn các nền tảng của nó.
- Từ chối huân chương "Vì nước Hung-ga-ri XHCN".

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-18.pdf

19. BƯỚC NGOẶT ĐỔI ĐỜI/ 1989-1992 (309..325)
- Viết cuốn sách Đề cương cuồng nhiệt vì quá độ kinh tế (gần như song song với cuốn sách Hệ thống XHCN) với ý thức "mình phải đóng góp vực đất nước dậy".
- Cuốn này sau này được dịch ra tiếng Anh với nhan đề "Con đường dẫn tới chế độ nông nô" (The Road to Serfdom). Tổng cộng, đã xuất bản bằng 17 thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt (Nguyễn Quang A dịch).

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-19.pdf

20. TRÊN RANH GIỚI CỦA KHOA HỌC VÀ CHÍNH TRỊ/ 1990- (326..342)
- Đi Trung Quốc và Việt Nam. Đưa ra nhận xét: Việt Nam giống nước Hung thời những năm 1980. Very Happy

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-20.pdf

21. TIẾP TỤC, CÁI TÔI ĐÃ LÀM ĐẾN NAY/ 1990- (343..373)
- Buổi lễ mừng sinh nhật lần thứ 70 tổ chức tại Budapest có đầy đủ bạn bè, đồng nghiệp, con cháu tham gia. Đến phút chót, đương sự mới biết! Laughing
- Năm 2002, quyết định chuyển hẳn về Budapest, không ở Đại học Ha-vớt nữa. (tự nguyện về hưu, không ai bắt buộc).
- Dọn nhà về Óbuda.
- Nhắc lại câu chuyện vicc: Đoàn đại biểu Hung đi thăm Trung Quốc. Mao Trạch Đông hỏi: dân số nước các đồng chí là bao nhiêu? Sau khi nghe câu trả lời, Mao Trạch Đông bảo: thật tuyệt vời, dân số ít như thế, chắc là ai cũng quen nhau! Very Happy Very Happy .

Xem thêm chi tiết:
http://vnkatonak.com/images/powered/Kornai/Kornai-21.pdf


Sự khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử - Karl Popper (Tủ sách S.O.S.2 )


" Để tưởng nhớ đến vô số đàn ông, đàn bà, và trẻ con thuộc mọi tín ngưỡng, mọi dân tộc hay chủng tộc, những người đã trở thành nạn nhân của lòng tin phát-xít và cộng sản vào các quy luật không thể lay chuyển được của vận mệnh lịch sử." -Tựa-













Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ chín [1] của tủ sách SOS2, cuốn Sự khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử của Karl Popper, nhà triết học lớn nhất thế kỉ 20. Ông nổi tiếng về những nghiên cứu phương pháp luận khoa học. Cuốn Logik der Forschung [Logic Nghiên cứu] được xuất bản đầu tiên năm 1934 và được dịch sang tiếng Anh với tiêu đề Logic of Scientific Discovery đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phương pháp khoa học của các khoa học tự nhiên. Cuốn sách này cũng có xuất xứ từ các năm 1930 và lần đầu tiên được xuất bản vào các năm 1944, 1945. Cuốn sách này chỉ ra rằng: Lòng tin vào vận mệnh lịch sử chỉ là sự mê tín, và không thể có sự tiên đoán nào về diễn tiến của lịch sử loài người bằng các phương pháp khoa học hay duy lí khác nào. Học thuyết tin vào vận mệnh lịch sử và tin vào việc có thể tiên đoán diễn tiến của lịch sử, và trên cơ sở đó, có thể cải biến xã hội một cách tổng thể cho phù hợp với các quy luật này, được ông gọi là chủ nghĩa lịch sử (historicism). Trước khi phê phán chủ nghĩa lịch sử, trong hai chương đầu, ông mô tả các thuyết lịch sử chủ nghĩa, và chỉ sau đó, trong hai chương cuối, ông mới phê phán nó. Tức là, trong hai chương đầu, ông đi mô tả nghiêm ngặt điều mà ông sẽ tấn công trong hai chương cuối. Cách làm này có điểm hay: Phê phán của ông sẽ rất chặt chẽ, rõ ràng là nó phê phán cái gì; chứ không như nhiều phê phán mà chúng tathường bắt gặp, không nêu tường minh điều muốn phê phán là gì, nên dễ dẫn đến nhầm lẫn. Tuy nhiên, nó cũng có nhược điểm: Sẽ có thể có người cho rằng, điều ông phê phán thực ra không có thực, mà chỉ do ông tạo ra. Phán xét cuối cùng là của bạn đọc. Lời đề tặng của ông có thể gây sốc cho một số bạn đọc Việt Nam, và có lẽ chính vì nó và vì nội dung của tiểu luận này mà ở Việt Nam (và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây), tác phẩm này của Popper được ít người biết đến. Tuy vậy, đọc kĩ, chúng ta sẽ biết được rất nhiều vấn đề mà đến nay chúng ta chưa biết hay không được phép biết, và có thể giúp chúng ta có phương pháp thích hợp trong việc thực hiện cải cách xã hội, một việc phải được tiến hành liên tục, theo cách dần dần, từ từ, từng phần một. Chúng ta có thể nhìn lại quá khứ của mình, của các nước xã hội chủ nghĩa, có thể học được từ các sai lầm, thử làm và chắc chắn sẽ vấp phải sai lầm khác, phát hiện ra sai lầm mới, sửa chúng và lại thử tiếp. Đó là cách tiếp cận thử-và-sai, cách tiếp cận khoa học có hiệu quả không chỉ trong các bộ môn khoa học tự nhiên và cả trong các bộ môn khoa học xã hội. Cuốn sách có thể bổ ích cho các học giả, các nhà hoạch định chính sách, và tất cả những ai quan tâm đến những vấn đề phương pháp luận của các bộ môn khoa học xã hội."

Dịch giả: Nguyễn Quang A

dow load: http://ifile.it/n8aycgb

Xã Hội Mở Và Những Kẻ Thù Của Nó - Karl Popper(Tủ sách S.O.S.2)


Tập 1: Bùa mê Của plato
Tập 2: CAO TRÀO TIÊN TRI:HEGEL, MARX VÀ HẬU QUẢ

Giời thiệu 1 chút về karl Popper nhé:

Sir Karl Popper (28 tháng 6 năm 1902 – 17 tháng 9 năm 1994) là một nhà triết học người Áo, người đề xuất các ý tưởng về một xã hội mở, một xã hội mà ở đó sự bất đồng chính kiến được chấp nhận và đó được xem như một tiền đề để tiến tới việc xây dựng một xã hội hoàn thiện. Ông cũng được xem như là người sáng lập Chủ nghĩa Duy lý phê phán (Critical rationalism).


Cuộc đời
Karl Popper sinh tại Wien năm 1902, là con một luật sư giàu có. Thân mẫu ông là người Do Thái cải đạo theo Tin Lành. Popper lớn lên trong một gia đình mà sách và âm nhạc luôn đóng vai trò quan trọng. Ngay từ khi còn trẻ Popper đã chú ý đến những câu hỏi về triết học. Năm 1918 Popper rời trường trung học đến nghe giảng tại trường Đại học Wien (Universität Wien) về các bộ môn toán, lịch sử, tâm lý học, vật lý lý thuyết và triết học.

Từ 1920 đến 1922 ông học tại Trường Âm nhạc Wien (Wiener Konservatorium), khoa nhạc nhà thờ, thế nhưng chẳng bao lâu lại hủy bỏ ý định trở thành nhạc sĩ.

Khi Poper bắt đầu học đại học vào năm 1924, phái cánh tả chiếm ưu thế về chính trị. Thời gian này là giai đoạn cao trào của thời kỳ Wien Đỏ (1918-1934). Popper đã hoạt động tích cực trong phong trào thanh niên xã hội chủ nghĩa. Sau khi chứng kiến 8 người bị giết chết trong các xung đột đầy bạo lực giữa những người cộng sản và cảnh sát Wien, ông rời bỏ Chủ nghĩa Marx và trở thành một người phê phán chủ nghĩa này một cách cương quyết.

Poppep tốt nghiệp khóa đào tạo sư phạm vào năm 1924, thế nhưng do không có nơi nhận làm thầy giáo nên ông đã làm việc trong một cơ sở xã hội giáo dục trẻ em. Năm 1925 ông theo học tại Viện sư phạm. Năm [1928 ông bảo vệ luận án phó tiến sĩ tại nhà tâm lý học và ngôn ngữ học Karl Bühler. Thông qua những năm học tập này Popper đã làm quen với thuyết tâm lý học của Oswald Külpe và "trường phái Würzburg", những việc đã có ảnh hưởng quyết định đến quan điểm về sư phạm và sau này là đến thuyết nhận thức của ông.

Năm 1930 Popper được nhận vào làm thầy giáo tại một trường trung học ở Wien. Ông dạy tại trường này cho đến năm 1935 và cũng trong năm này ông kết hôn với người nữ đồng nghiệp là bà Josefine Anna Henninger.

Khi bắt đầu tiếp xúc với "Nhóm Wien" chung quanh Moritz Schlick, Rudolf Carnap và Otto Neurath, Karl Popper bắt đầu đặt bút viết những dòng tư tưởng về triết học của ông. Thế nhưng đặc biệt là Schlick đã tách ly khỏi Popper, người đã phê phán quan điểm thực chứng lôgic và chỉ trích thái độ nóng nảy của ông. Vì thế Popper không còn được mời dự các cuộc họp của Nhóm Wien nữa.

Herbert Feigl đã động viên ông tiếp tục viết, việc Popper bắt đầu sau một thời gian lưỡng lự. Trong khoảng thời gian ba năm ông viết một bản thảo mà ngày nay chỉ còn tồn tại một phần. Phần còn lại của bản thảo này được ấn hành năm 1934 dưới dạng rút ngắn với tựa đề Logik der Forschung (Lôgic của việc nghiên cứu) và mãi đến năm 1979 mới được xuất bản dưới tựa đề Die beiden Grundprobleme der Erkenntnistheorie (Hai vấn đề cơ bản của nhận thức luận). Trong thời gian này ông đã tiếp xúc với Werner Heisenberg và Alfred Tarski.

Tác phẩm chính về triết học của khoa học "Lôgíc của nghiên cứu" cuối cùng đã được phát hành trong các tập san của "Nhóm Wien" mặc dù trong đó Popper đã phê phán chủ nghĩa thực chứng của nhóm này. Luận bản của Popper đã được thành viên của Nhóm Wien đánh giá như là một tác phẩm thành hình từ các thảo luận của nhóm. Ngày nay, tính khả phản bác được trình bày trong tác phẩm của Popper được xem như là cơ sở cho việc nghiên cứu khoa học hiện đại.

Từ 1935 đến 1936 Popper sang Anh một vài tháng, nơi ông gặp gỡ Erwin Schrödinger, Bertrand Russel và Ernst Gombich. Ông đã đàm thoại rất nhiều với Schrödinger và tiếp xúc với Friedrich von Hayek. Tình hình chính trị tại Áo trong thời gian này ngày càng trở nên căng thẳng, vì thế ông đã nhận lời mời giảng dạy tại Canterbury University College trong Christchurch ở New Zeeland. Năm 1937 Popper cùng vợ xin nghỉ dạy và di dân đến New Zeeland. Cho đến năm 1945, 16 người thân quyến của ông đã bị Đức Quốc Xã giết hại. Ra đời trong thời gian này là tác phẩm The Poverty of Historicism (Sự khốn cùng của chủ nghĩa lịch sử) cũng như là The Open Society and Ist Enemies (Xã hội mở và những kẻ thù của nó), tác phẩm đã mang lại cho ông danh tiếng của một nhà chính trị học. Đặc trưng cho các tác phẩm triết học của ông là việc tìm kiếm một tiêu chuẩn đáng tinh cậy cho tính duy lý khoa học.

Trong mùa đông 1944/1945 nhờ vào sự giúp đỡ của Friedrich August von Hayek, Popper nhận được lời mời giảng dạy tại der London School of Economics and Political Science. Đầu tháng 1 năm 1946 vợ chồng Popper đến London, nơi ông bắt đầu là giáo sư giảng dạy. Song song với đó, từ năm 1949 ông là giáo sư tại trường Đại học London của bộ môn "Lôgíc và phương pháp khoa học".

Năm 1965 Popper được Nữ hoàng Elisabeth II phong tước hiệp sĩ. Năm 1969 ông ngưng giảng dạy nhưng vẫn tiếp tục viết sách. Ông là thành viên của Mont Pelerin Society do Hayek thành lập, của Royal Society cũng như là của International Academy of Science.

Popper mất vào ngày 17 tháng 9 năm 1994 tại London.


Những tác phẩm chính của Popper
Logic của khám phá khoa học (1934)
Xã hội mở và những kẻ thù của nó (1945)
Sự khốn cùng của chủ nghĩa lịch sử (1976)

Những câu nói nổi tiếng của Karl Popper
"Dần dần nghề xây dựng xã hội giống nghề xây dựng công trình vật chất ở chỗ nhìn cứu cánh là nằm ngoài phạm vi công nghệ học".
"Khoa học có lẽ là hoạt động duy nhất của con người mà ở đó sai lầm được phê phán một cách hệ thống và... cuối cùng được hiệu chỉnh".

DOW LOAD HERE : http://www.mediafire.com/?tycfw9ztp0z