Thứ Sáu, 14 tháng 3, 2008

"Tìm về cội nguồn ngôn ngữ và ý thức"


Cuốn “Tìm về cội nguồn ngôn ngữ và ý thức” của giáo sư Trần Đức Thảo do nhà xuất bản Xã hội xuất bản ở Pari năm 1973, dày 344 trang. Trong lời giới thiệu, nhà xuất bản có giới thiệu tác giả là người đã để lại dấu ấn trong “cả một thế hệ trí thức Pháp qua những bài giảng của ông ở Trường Cao đẳng Sư phạm phố Ulm cũng như qua cuốn sách in năm 1951”.

Giáo sư Trần Đức Thảo quê ở Bắc Ninh, thi đỗ vào học Trường Cao đẳng Sư phạm Pari ở phố Ulm, năm 1943 tốt nghiệp thủ khoa, rồi sau đó làm luận án tiến sĩ ở trường đại học Sorbonne. Năm 1945-1948, ông giảng dạy ở trường Cao đẳng Sư phạm phố Ulm và Trường Sevnes. Năm 1951, ông viết cuốn sách “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng”, trong cuốn “Từ điển triết học”, Bernard và Porothee Raussant đã viết rằng cuốn sách đó là “một tác phẩm gây sửng sốt” mà tính táo bạo trong cách nhìn và sự sáng tỏ trong cách diễn đạt đã nhanh chóng được coi là kinh điển, đóng vai trò quan trọng trong việc đào luyện nhiều nhà triết học trẻ.

Sau năm 1951, giáo sư trở về Việt Nam, làm giảng viên đại học ở chiến khu Việt Bắc, rồi làm ở Văn phòng Tổng bí thư, Chủ nhiệm khoa Sử, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Phó hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Tác phẩm "Tìm về cội nguồn ngôn ngữ và ý thức" của giáo sư là để trả lời câu hỏi ý thức, ngôn ngữ bắt nguồn từ đâu, có từ bao giờ? Ông đã nghiên cứu các vấn đề: hành động chỉ dẫn như là hình thức gốc của ý thức; ngôn ngữ hỗn hợp; những nguồn gốc của khủng hoảng Oedipe (ham muốn tình dục). ông đi đến khẳng định nguồn gốc của ý thức do ngôn ngữ và lao động xã hội

Cũng như các tác phẩm khác của ông, tác phẩm "Tìm về cội nguồn ngôn ngữ và ý thức" được các học giả đánh giá cao và tái bản nhiều lần, được Nhà nước Truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000.

Cuối những năm 80, ông còn cho xuất bản cuốn “Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người” đề cập nhiều vấn đề triết học hiện đại trên quan điểm mácxit.

Giáo sư Trần Đức Thảo sinh ngày 26/9/1917 tại Từ Sơn, Bắc Ninh; mất ở Paris vào ngày 24/4/1993 khi đang viết dở dang cuốn sách “Logic của hiện tại sống động”; được nhận Huân chương Độc lập hạng Hai

Đọc toàn văn tại:Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức

Dow load tiếng việt: Tim ve coi nguon cua ngon ngu va y thuc - Tran Duc Thao.rar

MỘT SỐ BÀI BÁO VÀ TIỂU LUẬN CỦA TRẦN ĐỨC THẢO

Trước đây, tôi có làm một ebook tập hợp những bài báo và tiểu luận của triết gia Trần Đức Thảo đăng trên trang web của GS. Trần Hữu Dũng (http://viet-studies.info), nay up lên để mọi người cùng đọc.


Phải nói một nghịch lý là trên thế giới, nhất là tại Pháp, người ta biết đến Trần Đức Thảo còn nhiều hơn người Việt Nam biết về ông. Có thể bởi ông không đưa ra một học thuyết nào lớn như Hegel hay Mác, nên người ta ít chú ý đến ông hơn chăng ?

Dowload Files : Tieu_luan_Tran_Duc_Thao.rar


Phần một: Nhập đề lịch sử tư tưởng


Phần hai: Biện chứng pháp của tiền sử tư tưởng


Phần ba: Vấn đề nhận thức của loài người trong xã hội nguyên thủy

Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại

Nhung tu tuong lon tu nhung tac pham vi daiCầm quyển sách Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại (+), có thể người xem sẽ hơi… ngộp, nó bao hàm quá nhiều lĩnh vực, đơn giản vì đó là "sách của sách". Nhưng tác phẩm này xứng đáng được gọi là một cuốn sách hay.

Tác giả, Dr. Mortimer J. Adler là một chuyên gia về lịch sử tư tưởng phương Tây, ông giữ một chuyên mục của một tờ báo ở Mỹ, ông có nhiệm vụ trả lời tất cả những câu hỏi của bạn đọc thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội. Chủ yếu, bạn đọc muốn biết các nhà tư tưởng phương Tây trong quá khứ đã suy nghĩ và lý giải thế nào về những vấn đề con người hiện thời đang đối mặt. Và tác giả cuốn sách này, làm công việc đọc những tác phẩm bất hủ của họ và hệ thống, nói lại cho độc giả nghe. Thành công của chuyên mục kể trên là lý do cuốn sách này ra đời.

Cấu trúc cuốn sách dọc theo những câu hỏi chia thành từng nhóm đề tài, từ đạo đức, chính trị, xã hội, kinh tế... đến thần học, siêu hình học, triết học, mỹ học, nghệ thuật, quan hệ người và người… Không có tuyệt đối đúng sai, trả lời bằng cách trình bày các ý kiến của các nhà tư tưởng lớn, các ý kiến đưa ra có thể xung khắc nhau, và có thể lỗi thời so với hiện tại… nhưng đó là thành quả của nhiều năm lao động trí óc, từ đó, người đọc có thể học tập phương pháp tư duy của các nhà tư tưởng lớn.

Tác phẩm bổ ích cho tất cả mọi người vì những câu hỏi đặt ra rất gần gũi, là những vấn đề con người hiện đại quan tâm. Một điều thú vị khác, cuối sách có phần phụ lục gồm hình ảnh và tiểu sử tóm tắt của 42 nhà tư tưởng phương Tây tiêu biểu trong lịch sử.

Sách dễ đọc, đọc một mạch để làm giàu lý luận, hay có thể chỉ đọc những gì mình quan tâm nhất, đều thấy thú vị, giống như một cuốn từ điển có thể tra cứu bất kỳ lúc nào.

HƯƠNG YÊN (Báo Tuổi Trẻ, 28/05/2004)

_______________

(+) Tác giả Dr. Mortimer J. Adler, từ nguyên tác Great Ideas From The Great Books, Phạm Viêm Phương & Mai Sơn dịch và chú thích, NXB Văn Hoá Thông Tin, quý 1 năm 2004.

Nội dung tác phẩm

Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại
Dr. Mortimer J. Adler
Phạm Viêm Phương và Mai Sơn (Dịch và chú giải)
NXB. Văn Hoá Thông Tin - 2004


Sách gồm 10 phần:

Phần 1: Những câu hỏi về triết học, khoa học và tôn giáo
Phần 2: Những câu hỏi về chính trị: con người và quốc gia
Phần 3: Những câu hỏi về các vấn đề đạo đức
Phần 4: Những câu hỏi về nền giáo dục khai phóng và những tác phẩm lớn
Phần 5: Những câu hỏi về thần học và siêu hình học
Phần 6: Những câu hỏi về các vấn đề xã hội
Phần 7: Những câu hỏi về các định chế kinh tế
Phần 8: Những câu hỏi về nghệ thuật và cái đẹp
Phần 9: Những câu hỏi về tình yêu và tình bạn
Phần 10: Những câu hỏi về con người và thế giới con người
Phụ lục: Những hình ảnh và tiểu sử tóm tắt của 42 nhà tư tưởng tiêu biểu trong lịch sử.



Mai Sơn (1956), nhà báo, nhà văn và dịch giả hiện sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông chuyên dịch trong lĩnh vực biên khảo và triết học, đã xuất bản 3 tập truyện và 4 tác phẩm dịch, sắp xuất bản tác phẩm biên soạn „100 đại triết gia“.

Phạm Viêm Phương (1955), dịch giả của nhiều tác phẩm văn học, triết học, chính trị, kinh tế, hiện sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.


Toàn văn bản dịch tác phẩm „Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại“ (bản PDF, 393 trang, 3.018 KB)

Hoặc : http://ebook.uploader.googlepages.com/nhung_tu_tuong_lon.rar


Phụ lục (Đính chính)

SOCRATES (469 – 399 tr. CN)

Triết gia Hy Lạp. Triết học của ông còn lưu giữ được thông qua trước tác của các học trò ông, đặc biệt là Plato. Ông sử dụng một phương pháp sau này trở nên nổi tiếng là “phương pháp Socrates” để tra vấn những tin tưởng truyền thống về đạo đức, công bằng, và những ý niệm xã hội khác. Bị buộc tội vô thần và làm suy đồi giới trẻ, ông phải nhận bản án tử hình.


PLATO (428 – 347 tr. CN)

Triết gia Hy Lạp. Ðồ đệ của Socrates, và thầy dạy của Aristotle, ông sáng lập Hàn Lâm Viện Athens. Các tác phẩm của ông, được viết dưới hình thức đối thoại, có thể kể Phaedo, Symposium, và Republic.


ARISTOTLE (384 – 322 tr. CN)

Triết gia và nhà khoa học Hy Lạp. Ông là một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất đến triết học Tây phương.

Aristotle lần đầu đến thụ giáo Plato lúc còn là một cậu thiếu niên, và ba mươi năm sau ông sáng lập trường cao đẳng Lyceum, ở đó ông dạy và viết về mọi đề tài: triết học, lôgic, chính trị, tu từ học, văn chương, và các khoa học. 1500 năm sau ông vẫn còn được coi là người có thẩm quyền về các chủ đề này.


SAINT AUGUSTINE (354 – 430)

Giáo sĩ và nhà thần học La Mã. Kiệt tác của ông,The Kingdom of God, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của Thiên Chúa giáo.

Augustine là nhân vật hàng đầu của giáo hội Bắc Phi đầu thế kỷ V. Ông triển khai triết học Kitô giáo theo đường hướng học thuyết của Plato.


SAINT THOMAS AQUINAS (1225 – 1274)

Triết gia kinh viện Ý. Nhà thần học chính yếu của Cơ Ðốc giáo La Mã.


MIGUEL DE CERVANTES (1547 – 1616)

Tiểu thuyết gia, kịch tác giaTây Ban Nha. Tiểu thuyết Don Quixote (1605 - 1615) của ông ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của tiểu thuyết.


GALILEO (1564 – 1642)

Nhà vật lý, nhà thiên văn người Ý. Là một trong những người đặt nền tảng cho cuộc cách mạng khoa học ở châu AÂu, những đóng góp chủ yếu của ông bao gồm việc áp dụng kính viễn vọng vào ngành thiên văn và việc khám phá ra quy luật của các vật thể rơi và những chuyển động của đạn.


WILLIAM SHAKESPEARE (1564 – 1616)
Nhà thơ, nhà soạn kịch người Anh. Ông được thừa nhận rộng rãi là một trong những nhà soạn bi kịch vĩ đại nhất trong khối nói tiếng Anh. Các tác phẩm chính: Romeo và Juliet (1592), Hamlet (1601?), Macbeth (1606), Vua Lear (1607)


RENÉ DESCARTES (1596 – 1650)

Triết gia, nhà toán học Pháp. Ông thường được coi là cha đẻ của triết học hiện đại. Tác phẩm nổi tiếng Phương pháp luận (1637) của ông giới thiệu kỹ thuật truy tầm triết lý. Công trình về hình học giải tích của ông dẫn đến hệ thống tọa độ mang tên Descartes.


JOHN MILTON (1608 – 1674)

Nhà thơ Anh. Thơ của ông được xếp vào loại tài sản quí báu nhất của văn học Anh, trong đó có kiệt tác The Lost Paradise (1667) thuật lại câu chuyện Adam và Eve bị đuổi khỏi vườn địa đàng


BARUCH SPINOZA (1632 – 1677)

Triết gia Hà Lan. Chống lại Do Thái giáo nền tảng văn hóa của mình, ông triển khai một thứ triết học kết hợp những yếu tố duy lý và phiếm thần. Tác phẩm chủ yếu của ông là Ethics (1674).

ISAAC NEWTON (1642 – 1727)

Khoa học gia người Anh. Ông khám phá ra luật hấp dẫn, sáng nghĩ ra phép tính, và diễn đạt luật chuyển động. Ông nhận thấy rằng ánh sáng trắng là sự pha trộn của các thứ ánh sáng có màu. Tác phẩm chính: Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên (1687) và Quang học (1704)


VOLTAIRE (1694 – 1778)

Triết gia, nhà văn Pháp. Là khuôn mặt hàng đầu trong phong trào Ánh sáng, ông viết nhiều tác phẩm văn học thể hiện tinh thần cực đoan và những ý tưởng tôn giáo của mình. Các tác phẩm chính có thể kể: Những bức thư triết học (1734), Candide (1759), Tự điển triết học (1764)


DAVID HUME (1711 – 1776)

Triết gia, sử gia người Scotland. Các tác phẩm chính: Luận về Bản tính con người (1739 - 1740) và Khảo về tri thức con người (1758)


JEAN JACQUES ROUSSEAU (1712 – 1778)

Triết gia, nhà văn Pháp. Ông là một trong những tác giả vĩ đại nhất của phong trào Ánh sáng. Các tác phẩm của ông có thể kể Xã Ước (1762), Nàng Heloise mới (1761), và Émile (1762).

ADAM SMITH (1723 – 1790)

Triết gia, nhà kinh tế học người Anh. Ông trình bày học thuyết mậu dịch tự do của mình trong tác phẩm Sự phồn vinh của các quốc gia (1776)


IMMANUEL KANT (1724 – 1804)
Triết gia Ðức. Ông là người gieo ảnh hưởng sâu xa lên triết học Tây phương qua hai tác phẩm chủ yếu Phê phán lý tính thuần túy (1781) và Phê phán lý trí thực hành (1788)


GEORGE WASHINGTON (1732 – 1799)

Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ. Tổng tư lệnh quân đội Mỹ trong cuộc Cách mạng 1775 - 1783


THOMAS JEFFERSON (1743 – 1826)

Tổng thống thứ ba của nước Mỹ. Tác giả Tuyên ngôn độc lập (1776)


JOHANN WOLFGANG VON GOETHE (1749 – 1832)

Nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch, nhà khoa học Ðức. Là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn của văn học châu AÂu, ông trước tác rất nhiều từ thơ, tiểu thuyết, kịch đến tiểu luận và thư từ. Kiệt tác của ông là bi kịch Faust (1808 - 1832). Ông cũng là tác giả của tiểu thuyết Nỗi đau của chàng Werther (1774).


GEORG WILHEM FRIEDRICH HEGEL (1770 – 1831)

Triết gia Ðức. Hệ thống siêu hình học duy tâm của ông tạo nên một ảnh hưởng to lớn đối với tư tưởng châu AÂu thế kỷ 19. Các tác phẩm của ông có thể kể: Hiện tượng luận về tinh thần (1807), Bách khoa các khoa học về triết học (1817


ARTHUR SCHOPENHAUER (1788 – 1860)

Triết gia Ðức. Triết học vô thần, bi quan sâu sắc của ông được trình bày cặn kẽ trong Thế giới như ý chí và Biểu tượng (1819).


JOHN STUART MILL (1806 – 1873)

Triết gia và nhà kinh tế học người Anh. Các tác phẩm quan trọng nhất của ông có thể kể: Một hệ thống Logic (1843) và Luận về tự do (1859).


ABRAHAM LINCOLN (1809 – 1865)

Tổng thống thứ 16 của nước Mỹ. Ông lãnh đạo Liên bang chiến thắng trong Nội chiến và xóa bỏ chế độ nô lệ. Ông bị ám sát trong khi đang xem kịch tại nhà hát.


CHARLES DARWIN (1809 – 1882)

Khoa học gia người Anh. Oâng là người đặt nền móng cho thuyết tiến hóa. Kiệt tác gây nhiều tranh cãi của ông là Nguồn gốc Chủng loài Thông qua Chọn lọc Tự Nhiên (1859).





SOREN KIERKEGAARD (1813 – 1855)

Triết gia Ðan Mạch. Triết học tôn giáo của ông đề cập đến hiện sinh cá nhân, sự lựa chọn, và sự cam kết; nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến thần học và các triết gia hiện sinh.


HENRY DAVID THOREAU (1817 – 1862)

Triết gia, tiểu luận gia người Mỹ. Các tác phẩm chính: Bất phục tùng dân sự (1849) và Walden (1854), trong đó ông mô tả một đời sống bình dị gần gũi với tự nhiên


KARL MARX (1818 – 1883)

Triết gia Ðức. Các tác phẩm của ông, đặc biệt là Tuyên ngôn Cộng sản (1848) và Tư bản luận (1867, 1885, 1894), là nền tảng của Chủ nghĩa cộng sản.


WALT WHITMAN (1819 – 1892)

Nhà thơ và nhà tiểu luận người Mỹ. Ông nổi tiếng với thơ tự do mà tiêu biểu là tuyển tập thơ mang tính cách tân về thi pháp Lá Cỏ (1855 - 1889)


FRIEDRICH ENGELS (1820 – 1895)

Nhà tư tưởng chính trị, nhà cách mạng Ðức. Ông là đồng tác giả Tuyên ngôn Cộng sản (1848) với Karl Marx đồng thời là người hỗ trợ tài chính cho Karl Marx.


FYODOR DOSTOYEVSKY (1821 – 1881)

Tiểu thuyết gia Nga. Tác phẩm chính: Tội ác và Hình phạt (1866) và Anh em nhà Karamazov (1879 - 1880)


LEV TOLSTOY (1828 – 1910)

Nhà văn Nga, tác giả hai bộ tiểu thuyết sử thi Chiến tranh và Hòa bình (1865 - 1869) và Anna Karenina (1875 - 1877). Ông bị trục xuất ra khỏi Chính Thống Giáo Nga vì những quan điểm cực đoan về quyền lực của giáo hội


FRIEDRICH NIETZSCHE (1844 – 1900)

Triết gia Ðức, tác giả của kiệt tác Zarathustra đã nói như thế (1883 - 1885), một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 19. Ông xây dựng một nền triết học dựa trên ý chí vươn tới quyền lực và chống đối tôn giáo.


ARTHUR RIMBAUD (1854 – 1891)

Nhà thơ Pháp. Tác phẩm chính: Một mùa địa ngụcNhững bức tranh tô màu (1873)


SIGMUND FREUD (1856 – 1939)

Bác sĩ người Áo, cha đẻ của phân tâm học. Ông khai triển nhiều lý thuyết chủ yếu đối với phân tâm học, tâm lý học về tính dục con người, và sự minh giải giấc mơ. Các tác phẩm của ông có kể Minh giải giấc mơ (1899) và Cấm kỵ và Vật tổ (1913)


BERTRAND RUSSELL (1872 – 1970)

Triết gia, nhà toán học, nhà hoạt động hòa bình người Anh. Ông viết nhiều tác phẩm triết học có ảnh hưởng lớn. Ông đoạt giải Nobel văn chương năm 1950.

Bertrand Russell vượt lên những ảnh hưởng liên tục của Bradley, Moore, Frege, và Wittgenstein để trở thành một triết gia Anh có nhiều độc giả nhất của thế kỷ XX.


ALBERT EINSTEIN (1879 – 1955)

Nhà vật lý người Mỹ gốc Ðức. Thuyết tương đối của ông là cuộc cách mạng về tư tưởng khoa học và là nền tảng lý thuyết cho năng lượng nguyên tử. Ðoạt giải Nobel vật lý năm 1921.


WILLIAM FAULKNER (1897 – 1962)

Nhà văn Mỹ. Ông được đánh giá là một trong những tiểu thuyết gia Mỹ vĩ đại nhất vì những tác phẩm viết theo kỹ thuật giòng - ý - thức về đời sống ở miền Nam nước Mỹ, trong đó có AÂm thanh và Cuồng nộ (1929). Ðoạt giải Nobel văn chương năm 1949.


ERNEST HEMINGWAY (1899 – 1961)

Nhà văn Mỹ. Một trong những nhà văn hàng đầu của thế kỷ 20. Các tác phẩm của ông có thể kể: Giã từ vũ khí (1929) và Chuông nguyện hồn ai (1940). Ðoạt giải Nobel văn chương năm 1954.


JEAN PAUL SARTRE (1905 – 1980)

Triết gia, kịch tác gia, và tiểu thuyết gia người Pháp. Là người chủ xướng thuyết hiện sinh, ông viết tác phẩm triết học Hữu Thể và Hư voâ (1943) và tiểu thuyết Buồn nôn (1938).

Jean Paul Sartre đã trở thành hình mẫu của trí thức Pháp: sâu sắc và khó hiểu, chống lại quy ước, dấn thân vào chính trị.

ALBERT CAMUS (1913 – 1960)

Tiểu thuyết gia, tiểu luận gia, nhà soạn kịch người Pháp, sinh tại Algeria. Các tác phẩm của ông có thể kể: Kẻ xa lạ (1942) và Dịch hạch (1947). Ðoạt giải Nobel văn chương năm 1957.

ARTHUR MILLER (1915 - )

Kịch tác gia Mỹ. Ông đoạt giải Pulitzer với vở bi kịch Cái chết của người chào hàng (1949). Người vợ thứ hai của ông là diễn viên điện ảnh Marylin Monroe.

Binh Pháp Tôn Tử

Binh Pháp Tôn Tử :: Tôn Vũ và Sơ lược về Binh pháp Tôn Tử

Tôn Vũ(LAC™) Nói đến các sách lược chiến đấu thì trên thế giới có không ít, nhưng không thể không nhắc đến “Thập Tam Thiên” (13 Chương) của “Tôn Tử Binh Pháp”. Vậy bạn biết gì về Tôn Tử Binh Pháp? Trong một đêm không gió… không mưa… không sương… không trăng sao… và đặc biệt là không ngủ (được)… Lắc đã ngồi nghiền ngẫm cuốn Tôn Tử Binh Pháp này và muốn giới thiệu cho mọi người biết những nét đặc sắc của Tôn Tử Binh Pháp. Cuốn sách mà ngày xưa là sách lận lưng của tướng soái xuất chinh còn ngay nay là cuốn sách gối đầu của các nhà tài phiệt, kinh doanh hàng đầu thế giới. Cuốn binh thư đầu tiên của thế giới, đúc kết những kinh nghiệm trận mạc của nhà quân sự hàng đầu thế giới: Tôn Vũ.

I. Tôn Vũ là ai?

Tôn Vũ (孫武 - pinyin: Sūn Wǔ), 554 - 496 trước Công Lịch, là người gốc nước Tề (Trung Hoa). Ông sinh ra trong thời loạn Xuân Thu Chiến Quốc (722 - 481 trước Công Lịch), đây cũng là thời kỳ ra đời của Khổng Phu Tử, hay còn gọi là Khổng Tử, học thuyết gia nổi tiếng với Nho học và Đạo Khổng tồn tại và phát triển ở các nước ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cho tới tận ngày nay. Xuân Thu Chiến Quốc là giai đoạn mà chiến tranh và tư tưởng quân sự bao trùm gần như là tất cả.

Ngay trong tên gọi của ông, chữ Vũ có nghĩa là vũ khí, vũ lực. Ông đã làm quan đến chức Phá Sở Đại Nguyên Soái, quân sư cho vua Ngô Hạp Lư và đã lập được nhiều công lớn. Vì nước Ngô mà ông đã đem ba (03) vạn quân phá tan hai mươi (20) vạn quân của nước Sở để vào Sính Đô, làm cho các nước Tề, Tấn ở chung quanh phải khiếp sợ, đưa nước Ngô từ một tiểu quốc chư hầu trở thành một đại quốc chư hầu có thể xưng hùng xưng bá với 6 nước còn lại. Mặc dù là một nhà quân sự lỗi lạc nhưng quan điểm của Tôn Tử là hòa bình và thanh đạm. Do không ham công hầu, danh tướng mà ông đã về ở ẩn tại La Phù Sơn (núi La Phù), thuộc nước Ngô và viết nên Thập Tam Thiên (13 chương) Binh Pháp, còn gọi là Tôn Tử Binh Pháp (孫子兵法 - pinyin: Sun-tzu ping fa).

Tuy thời gian tham chiến không lâu nhưng những gì ông đã để lại cho đời có giá trị rất lớn và lâu dài.

II. Sơ lược về Tôn Tử Binh Pháp
Binh pháp Tôn T�

Binh pháp Tôn Tử là cuốn binh thư bằng tiếng Trung Quốc đầu tiên, được viết vào thế kỷ thứ 6 trước Công Lịch. Bao gồm 13 chương, mỗi chương là một khía cạnh khác nhau của chiến tranh quân sự, tập hợp các kỹ, chiến thuật trong đấu tranh. Có thể xem đây là một cuốn sách cổ xưa nhất về chiến thuật chiến tranh của thế giới. Cuốn sách đã được dịch thành 29 thứ tiếng và tạo được sức ảnh hưởng rất lớn về chiến thuật chiến tranh quân sự từ Đông sang Tây bán cầu. Thậm chí còn tạo ảnh hưởng đến thương mại và còn hơn thế nữa. Tôn Tử là người đầu tiên nhận thấy được tầm quan trọng của chiến thuật, kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh để tác động đến đối phương.

Năm 1782, cuốn sách lần đầu tiên được dịch sang tiếng Pháp, và đã gây ảnh hưởng rất mạnh mẽ cho Hoàng đế Napoleon. Nhà lý luận quân sự nổi tiếng người Anh, người đặt nền móng lý luận ”đại chiến lược” Lydern Hatill không chỉ tự mình dịch toàn bộ nguyên bản cuốn Tôn Tử Binh Pháp ra tiếng Anh mà ông còn viết thêm một quyển “Luận chiến lược” để dẫn giải và tường thuật lại. Hatill cho biết, trong tác phẩm quân sự của ông, giải nghĩa rất nhiều quan điểm tìm thấy qua nguyên bản cuốn Tôn Tử Binh Pháp từ hơn 2500 năm trước. Nó cũng góp phần hoạch định chiến dịch Bão Sa Mạc tại Kuwait năm 1991 của Quân Mỹ và NATO. Theo ghi chép, cuốn sách là gối đầu của các đại tướng, tướng quân nằm trong 10 đại tướng của Thế Giới qua các thời đại như Võ Nguyên Giáp, Trần Hưng Đạo (người đã viết ra Bình Thư Yếu Lược). Mao Trạch Đông và Joseph Stalin cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ cuốn sách này.

Nội dung của sách cũng đã được ứng dụng và rất thành công trong lĩnh vực thương mại và quản lý.

III. Tôn Tử đã cầm quân bao nhiêu lần ?

Trong bộ sử ký của mình, Tư Mã Thiên có viết về tài năng quân sự của Tôn Vũ (Tôn Tử) như sau: “Tôn Vũ phía tây đại phá nước Sở mạnh, phía Đông dẹp yên Tề, Tần uy danh lừng lẫy khắp chư hầu, làm tướng như thế thật khó ai so bì”. Quả thật trong 30 năm sự nghiệp quân sự của mình, Tôn Vũ đã lập nhiều chiến công hiển hách và luôn xứng đáng với những lời tôn vinh trong sử sách. Tuy nhiên có một vấn đề luôn gây ra sự tranh cãi kịch liệt từ trước đến nay đó là: rốt cuộc Tôn Vũ đã thân chinh chỉ huy bao nhiêu trận đánh. Vừa qua giới nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc khi đã nghiên cứu, đối chiếu, tổng hợp, so sánh từ các sử liệu như: “Ngô việt Xuân Thu”, “Việt sắc thư”, “Tả truyện”, “Sử ký” đã đưa ra kết luận: Trong sự nghiệp quân dịch của mình, Tôn Vũ chỉ trực tiếp chỉ huy 5 trận đánh và chính 5 trận chiến “để đời” này đã góp phần đưa tên tuổi của ông bất hủ cùng thời gian.

* Lần chỉ huy thứ nhất: Xảy ra vào tháng 12 năm 512 trước công nguyên, khi đó Ngô Vương là Hạp Lư ra lệnh cho Tôn Vũ chỉ huy quân tiêu diệt 2 nước nhỏ là nước Chung Ngô và nước Từ. Trong lần cầm quân đầu tiên này, Tôn Vũ đã xuất sắc hạ gọn 2 nước trên đồng thời thừa thắng chiếm được đất Thư thuộc nước Sở lập công lớn được Ngô Vương ban thưởng.
* Lần chỉ huy thứ hai: Theo lệnh của Hạp Lư, năm 511 trước công nguyên, Tôn Vũ lại thống lĩnh ba quân cùng Ngũ Tử Tư, Bạch Hỷ đi chinh phạt nước Sở bởi lý do “Sở Vương từ chối không chịu trao thanh bảo kiếm Trạm Lô cho Hạp Lư”. Dưới quyền chỉ huy của Tôn Vũ quân Ngô đánh hai trận thắng cả hai, chiếm gọn 2 xứ Lục và Tiềm thuộc đất Sở.
* Lần chỉ huy thứ ba: xảy ra vào năm 510 trước công nguyên, lúc này giữa nước Ngô và nước Việt lần đầu tiên xảy ra cuộc chiến tranh quy mô lớn mà sử sách còn ghi lại đó là cuộc “Đại chiến Huề-Lý”. Trong cuộc chiến này lần đầu tiên Tôn Vũ đưa ra cách dụng binh “Quý hồ tinh bất quý hồ đa” trong đánh trận do vậy chỉ với 3 vạn quân với phép dụng binh tài tình của Tôn Vũ đã đánh bại 16 vạn quân nước Việt. (Ghi chú: nước Việt này không phải là Việt Nam của chúng ta, vì thời gian đó, chúng ta là nước Âu Lạc).
* Lần chỉ huy thứ tư: Vào năm 509 trước công nguyên xảy ra cuộc “đại chiến Dự Chương” giữa hai nước Ngô và Sở. Khi đó vua Sở sai con trai là công tử Tử Thương và công tử Tử Phàm dẫn đại quân tiến đánh nước Ngô, nhằm báo thù nỗi nhục mất đất năm xưa. Một lần nữa Ngô Vương Hạp Lư lại giao cho Tôn Vũ cầm quân chống giặc. Lần này Tôn Vũ khôn khéo vòng tránh đội quân chủ lực của công tử Thường, dùng lối đánh vu hồi tập kích doanh trại bắt sống công tử Phàm, quân Sở từ thế mạnh, chuyển sang yếu cầm cự chưa đầy một tháng phải rút chạy về nước.
* Lần chỉ huy thứ năm: Vào ngày 18-11-506 trước công nguyên, 2 nước Ngô-Sở một lần nữa xảy ra chiến tranh, sử sách gọi đây là “cuộc chiến Bách Cử”. Đây là cuộc chiến lớn nhất trong lịch sử 2 nước. Lần này quân Sở huy động 25 vạn quân tiến đánh nước Ngô, khí thế báo thù rất sôi sục. Theo kế của Tôn Vũ và Ngũ Tử Tư, vua Ngô bí mật liên kết với 2 nước nhỏ là Đường và Thái làm thành liên minh chống Sở. Khi tác chiến, Tôn Vũ triệt để lợi dụng địa hình thuận lợi của 2 nước “đồng minh” để triển khai chiến thuật “Khống chế chính diện”, “Tập kích vu hồi mạn sườn” của mình. Sau 5 lần giao chiến với quân Sở, Tôn Vũ đều giành thắng lợi. Cuối cùng 3 vạn quân Ngô đã phá tan 25 vạn quân Sở tiến vào kinh đô nước Sở buộc Sở vương phải tháo chạy.

Với 5 trận đánh “để đời” này, uy danh và tài thao lược quân sự của Tôn Vũ (Tôn Tử) lừng lẫy khắp thiên hạ. Thêm vào đó là bộ “Tôn Tử Binh Pháp” dài 13 thiên bất hủ của ông đã khiến cho tên tuổi của Tôn Vũ nổi tiếng khắp thế giới cho tới ngày nay


Download free ebook Binh phap ton tu

Thành Cát Tư Hãn


sinh ra với tên Thiết Mộc Chân (Тэмүүжин) khoảng năm 1155/1162/1167 và mất ngày 18 tháng 8 năm 1227, là Hãn vương của Mông Cổ và là người sáng lập ra Đế chế Mông Cổ sau khi hợp nhất các bộ lạc độc lập của Mông Cổ năm 1206. Là một nhà lãnh đạo lỗi lạc và quan trọng của lịch sử thế giới, ông được người Mông Cổ dành cho sự tôn trọng cao nhất, như là một vị lãnh đạo đã loại bỏ hàng thế kỷ của các cuộc giao tranh, mang lại sự ổn định về chính trị và kinh tế cho khu vực Á-Âu trong lãnh thổ của ông, mặc dù đã gây ra những tổn thất to lớn đối với những người chống lại ông. Cháu nội của ông và là người kế tục sau này, đại hãn Hốt Tất Liệt đã thiết lập ra triều đại nhà Nguyên của Trung Quốc (1271–1368) sau khi lật đổ triều đại nhà Nam Tống.

Có rất nhiều nhân vật nổi tiếng được cho là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn, là những kẻ đi xâm chiếm nhiều đất đai về tay mình như Timur Lenk, kẻ chinh phục dân Thổ Nhĩ Kỳ, Babur, người sáng lập ra Đế chế Mogul ở Ấn Độ. Những hậu duệ khác của Thành Cát Tư Hãn còn tiếp tục cai trị Mông Cổ đến thế kỷ 17 cho đến khi nó bị thống trị lại bởi người Trung Quốc.

Download free ebook thanh cat tu han

LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN ĐẠI


Tóm tắt nội dung:

Lịch sử thế giới cận đại phương Tây và lịch sử thế giới cận đại phương Đông bắt đầu từ cuộc cách mạng tư sản Anh giữa thế kỉ XVII, kết thúc bởi cuộc cách mạng XHCN tháng Mười Nga và Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đầu thế kỉ XX, với nội dung cơ bản là sự chuyển biến từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa.

Download free ebook lich su the gio can dai



Lịch Sử Văn Minh Thế Giới (Đoàn Trung biên soạn)

"Lịch Sử Văn Minh Thế Giới" là môn học có nhiệm vụ cung cấp những kiến thức cơ bản về quá trình ra đời và phát triển của các nền văn minh tiêu biểu trong lịch sử loài người.
Nội dung của cuốn sách như sau:
# Bài mở đầu.
# Chương 1: Văn minh Bắc phi và Tây Á.
# Chương 2: Văn minh Ấn Độ.
# Chương 3: Văn minh Trung Quốc.
# Chương 4: Văn minh Hy Lạp cổ đại
# Chương 5: Văn minh La Mã cổ đại.
# Chương 6: Văn minh Tây Âu thời Trung Đại.
# Chương 7: Sự xuất hiện văn minh công nghiệp.
# Chương 8: Văn minh thế giới thế kỉ XX.
Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn.

dow load


http://www.vietnamweek.net/Library/Images/53/2007/10/Donga4.jpg

Tư liệu khảo cổ, lịch sử, văn hoá Đông Á
Tác giả :Nguyễn Đức Hiệp
Nguồn: Văn nghệ sông Cửu long
...............
Đông Nam Á là nơi cư trú lâu đời của con người từ khi con người hiện đại đi từ Đông Phi qua Ấn Độ đến Đông Nam Á hơn 60000 năm nay. Từ Đông Nam Á, con người đã đi đến Úc châu, và sau đó đã đi lên Đông Á. Người cổ nhất được tìm thấy ở Úc, ở hồ Mungo (nay là sa mạc), được định tuổi là khoãng 50000 năm. Hiện nay chưa tìm được di tích người cổ hơn người Mungo ở Đông Nam Á, nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy Đông Nam Á là điểm xuất phát của con người đi xuống lục địa Úc trong thời băng hà Pleistocene. Để có thể hiểu rõ quá trình phát triển của con người, chúng ta hảy đi ngược lại thời gian tìm hiểu về địa chất, môi trường sống trong vùng Đông Nam Á từ cuối thời băng hà Pleistocene cho đến ngày nay.

dow load

http://www.glorantha.to/~tome/arts/eastisle/angkor.jpg

Chân Lạp Phong Thổ Ký


Đọc sách ở đây nhiều rồi mà chưa đóng góp được gì cũng hơi kỳ, vậy xin bỏ lên đây cuốn ebook "Chân Lạp Phong Thổ Ký", nguồn đánh máy của anh Lê Bắc tại:

http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,7478

_______
Quyển sách duy nhất mô tả vùng Angkor, đế đô nước Cao Miên ngày xưa giữa thời cực thịnh là tập ký ức "Chân Lạp Phong Thổ Ký" của ông Châu Đạt Quan.

Ông Châu Đạt Quan, hiệu là Thảo Đình Di Dân, quê ở Vĩnh Gia, huyện Ôn Châu, tỉnh Triết Giang, Trung Hoa, năm thứ 2 niên hiệu Nguyên Trinh (Bính Thân 1296) triều Vua Thành Tông (1295-1308) nhà Nguyên (1277-1368) theo một phái đoàn sứ giả sang Cao-Miên dưới triều vua Cindravarman (1295-1307). Ông ở đất Miên hơn một năm, ghi những điều mắt thấy tai nghe về cuộc du hành xuyên qua miền Nam Việt Nam ngày nay và mọi phương diện sinh hoạt của người bổn xứ. Năm thứ 1 niên hiệu Đại Đức (Đinh Dậu 1297), ông trở về và hoàn thành tác phẩm này trước năm 1312, đến đời nhà Minh (1368-1680) được ông Ngô-Quán, quê ở Tân-An, huyện Hấp, tỉnh An Huy hiệu đính.

Đối với các nhà khảo cổ, tập ký ức của họ Châu là một tài liệu vô cùng quý giá để tìm hiểu về Cao Miên, một quốc gia không có để lại lịch sử trên giấy mực, còn đối với người Miên thì chính họ phải nhờ những dòng chữ vàng ngọc kia để biết tổ tiên họ trong khoảng thời gian ấy.

Người đầu tiên phiên dịch tập ký ức này ra Pháp ngữ là ông Abel Rémusat trong năm 1819 đăng từng đoạn trên tạp chí của nhà xuất bản Dondey-Dupré và trong tập thứ 3 tạp chí Novel les Annales des Voyages của nhà xuất bản Eyriès et Maltebrun nhan đề: "Description du Royaume de Cambodge par un voyageur Chinois qui a visité cette contrée à la fin du XIIIe siècle" có kèm theo bức địa đồ. Năm 1829, bản dịch được đăng lại trên tạp chí Nouveaux Mélanges Asiatiques et Recueil de Morceaux de Critiques et de Mémoires của nhà xuất bản Schuber et Heide Joff ở Paris, từ trang 100 đến 152, không có bức địa đồ.

Năm 1902, ông Paul Pelliot cũng dịch ra Pháp ngữ đăng trên tạp chí của trường Bác Cổ Viễn Đông (Bulletin de L'Ecole francaise d'Extrême Orient) tập II, 1902 từ trang 123 đến 177.

Năm 1954, nhà xuất bản Adrien-Maison-neuve ở Paris ấn hành bản trên đây do Dịch giả sửa chữa nhiều nơi kèm theo phần bình giải rất phong phú, nhưng tiếc thay chỉ được có ba trong bốn mươi chương của nguyên bản thì ông từ trần.

Năm 1967, ông J. Gilman d'Arcy Paul phiên dịch tác phảm của ông Paul Pelliot ra Anh ngữ nhan đề: Chou-Ta-Kuan Notes on the customs of Cambodia ấn hành ở Bangkok (Thái Lan) do nhà xuất bản Social Sciences Association Press.

Chúng tôi soạn phần Việt ngữ theo nguyên văn tập ký ức do Bác sĩ Otto Karow, giáo sư tại Viện Đại Học Goethe ở tỉnh Frankfurt (Tây Đức) gởi tặng qua sự giới thiệu của Giáo sư Bùi Hữu Sủng, được ông Hoàng Đẩu Nam, chuyên viên Hán học ở Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa và Giáo sư Việt gốc Hoa Quách Chí Dân ở Phan Thiết giải thích những điểm cần thiết, sao cùng là vài điều nhận xét của chúng tôi mạo muội chua thêm.

Dịch giả: Lê Hương - Nhà xuất bản Kỷ Nguyên Mới - Ấn hành lần thứ nhất (1973), Saigon, Việt Nam.

dow load

http://farm1.static.flickr.com/212/508890824_d72d984ccd.jpg

Tháp Bà Nha Trang Và Lược Sử Chiêm Thành


Nói đến Nhatrang, "phố biển hiền hòa", "miền thùy dương cát trắng", nằm cách Huế khoảng 624 cây số về phía nam và cách Sàigòn khoảng 442 cây số về phía bắc; không ai lại quên nhắc đến một thắng cảnh độc đáo và cũng là một thánh tích quan trọng, đó là Tháp Bà Nhatrang hay Tháp Po Nagar.

dow load

Alvin Toffler



Alvin Toffler (born October 3, 1928) is an American writer and futurist, known for his works discussing the digital revolution, communications revolution, corporate revolution and technological singularity. A former associate editor of Fortune magazine, his early work focused on technology and its impact (through effects like information overload). Then he moved to examining the reaction of and changes in society. His later focus has been on the increasing power of 21st century military hardware, weapons and technology proliferation, and capitalism. He is married to Heidi Toffler, also a writer and futurist. They live in Los Angeles. They wrote the books credited to "Alvin Toffler" together.

Accenture, the management consultancy, has dubbed him the third most influential voice among business leaders, after Bill Gates and Peter Drucker. He has also been described in the Financial Times as the "world's most famous futurologist". People's Daily classes him among the 50 foreigners that shaped modern China.[1]

Contents












Cú sốc tương lai - Alvin Toffler
Người dịch : Nguyễn văn Trung
NXB Thông tin lý luận - 1992

Đây là một tác phẩm rất hay, dự báo về tương lai của xã hội siêu công nghiệp sắp đến, một cuộc cách mạng còn sâu rộng hơn cuộc cách mạng công nghiệp ở thế kỷ 17, 18, vì không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế mà còn liên quan đến mọi khía cạnh khác của xã hội. Sự thay đổi của xã hội sắp đến không chỉ ở sự khác biệt so với hiện tại, mà còn là tốc độ của thay đổi, nó xảy ra với một nhịp độ đến chóng mặt, tác động không chỉ đối với từng cá nhân, mà còn đối với tập thể, quốc gia, tạo ra cái gọi là “Cú shock tương lai”, một từ do tác giả đưa ra, đã bắt đầu biến thành ngôn ngữ thông dụng trong báo chí, sách và cả từ điển.

Trích lời giới thiệu của nhà xuất bản
...
Cú sốc tương lai (Future Shock) là một trong bộ ba tác phẩm nổi tiếng đã đưa tác giả lên vị trí "nhà tương lai học lừng danh".
...
Với dung lượng thông tin đầy ắp và những dẫn chứng cụ thể, có sức thuyết phục, tác phẩm đã miêu tả, phân tích và nhận định về xã hội trong khung cảnh những đổi thay đến mức kỳ lạ, làm đảo lộn lối sống, cách nghĩ của con người từ xưa đến nay ; rút ra những nhận định về đặc điểm của thời đại mà chúng ta đang sống। Đưa người đọc vượt qua những phát kiến hấp dẫn của "thời kỳ bùng nổ" để đến với những giải pháp nhiều mặt về vật chất và tinh thần, về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, về mỗi cá nhân và cả cộng đồng...


Abstract
(Full link: http://en.wikipedia.org/wiki/Future_Shock)

Future Shock is a book written by the sociologist and futurologist Alvin Toffler in 1970. The book is actually an extension of an article of the same name that Toffler wrote for the February 1970 issue of Playboy. The book has sold over 6 million copies and has been widely translated.

Future shock is also a term for a certain psychological state of individuals and entire societies, introduced by Toffler in his book of the same name Toffler's shortest definition of future shock is a personal perception of "too much change in too short a period of time" The concept of future shock bears resemblance to the late 20th/early 21st century concept of "the technological singularity", and may have been influenced by Kuhn's concept of a technological paradigm

Tiếng anh: File Type: rar Alvin_Toffler___Future_Shock.rar

Tiếng viêt : File Type: rar CuSocTuongLai.rar


Đợt sóng Thứ ba






Lời giới thiệu
GS. Nguyễn Hồng Phong (Viện sử học Việt Nam )

Cuốn sách "Đợt sóng Thứ ba" (The Third Wave) do Viện Sử học Việt Nam tổ chức dịch và giới thiệu với bạn đọc là một cuốn sách có giá trị, rất nổi tiếng của nhà xã hội học và tương lai học Alvin Toffler.

Ngay sau lần xuất bản đầu tiên, nó đã được tái bản 5 lần trong năm 1980, 7 lần năm 1981. Được dịch ra hàng chục thứ tiếng. Ngoài bản tiếng Anh, nó đã được dịch ra những thứ tiếng như Pháp, Đức, Nhật, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Hà Lan, Hêbrơ, Bồ Đào Nha, Xecbi-crôatia (Nam Tư), Thụy Điển, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc và đã được đọc ở 50 nước.

Alvin Toffler là giáo sư Trường Đại học Cornell, một nhà bác học trong tổ chức mang tên Russell và trong 5 năm ông đã là công nhân. Ông có 5 bằng Tiến sĩ về khoa học văn học và luật học.

Cuốn sách "Cú sốc tương lai" (Future Shock) đã xuất bản của ông được giải thưởng cuốn sách nước ngoài hay nhất của Pháp.

Để giúp bạn đọc rộng rãi thêm hứng thú để đọc tác phẩm đầy đặn, phong phú về các sự kiện và các ý tưởng này, chúng tôi giới thiệu, nói đúng hơn là lược thuật tóm tắt những nội dung chính của tác phẩm.


Từ đợt sóng thứ nhất đến đợt sóng thứ ba

Đợt sóng thứ ba - Văn minh hậu công nghiệp

Mục lục


Bộ mặt thế giới ngày nay thực là cực kỳ phức tạp. Bên cạnh những thành tựu kỳ diệu, những bước tiến phi thường của trí tuệ loài người về các mặt khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thì các mặt khác lại không như thế. Năng lượng toàn cầu đang đi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Môi trường sinh thái bị phá hủy nặng nề và vẫn đang còn tiếp tục bị hủy hoại, khoảng cách giàu nghèo giữa các nước vẫn còn xa vời. Nền kinh tế trên thế giới có những thời kỳ trôi giạt cao độ. Nói về cuộc khủng hoảng này, A. Toffler viết:

"Không giống như tất cả các cuộc cách mạng trước trong thời đại công nghiệp, bây giờ nó dính líu chẳng những với tiền tệ mà còn với toàn bộ cơ sở năng lượng của xã hội. Không giống như những cuộc khủng hoảng của quá khứ, nó đem đến cùng một lúc cả lạm phát và cả tình trạng không có công ăn việc làm chứ không phải kế tiếp nhau. Không giống các cuộc khủng hoảng trước, nó gắn liền với các vấn đề sinh thái căn bản, với các loại công nghệ hoàn toàn mới và với một trình độ ứng dụng mới các truyền thông vào hệ thống sản xuất. Cuối cùng, nó không phải là cuộc khủng hoảng của riêng chủ nghĩa tư bản... Nói tóm lại, nó là cuộc khủng hoảng chung của nền văn minh công nghiệp với tư cách là một chỉnh thể" .

Nhưng không phải chỉ về mặt kinh tế. Về các mặt khác, những biến cố, những khuynh hướng, những sự phát triển cũng không kém phần dữ dội và độc đáo. Bên cạnh sự phát triển của vô tuyến truyền hình là sự phát triển của các tín ngưỡng. Các hệ thống giá trị tan vỡ và sụp đổ. Gia đình hạt nhân tan vỡ ở nhiều nơi. Các phong trào ly khai xuất hiện. Các chế độ chính trị hoặc là sụp đổ hoặc là đang khủng hoảng nghiêm trọng, chứ không còn tính chất ổn định như trước kia.

A. Toffler nói rằng: "Nhìn những sự thay đổi dữ dội này, chúng ta có thể coi chúng như những bằng chứng cô lập về sự không ổn định, sự sụp đổ và tai họa. Nhưng nếu chúng ta đứng lùi lại để có cái nhìn dài hơn thì... phải nói rằng nhiều sự thay đổi ngày nay không phải độc lập với nhau. Chúng cũng không phải ngẫu nhiên... các biến cố đó và các khuynh hướng đó cùng với nhiều biến cố và khuynh hướng khác tưởng như tách rời nhau lại liên hệ mật thiết với nhau”.

Theo A.Tollfer: "Trên thực tế, những biến cố và những khuynh hướng ấy là một bộ phận của một hiện tượng rộng lớn hơn nhiều, đó là: cái chết của chủ nghĩa công nghiệp và sự sự ra đời của một nền văn minh mới". Nền văn minh mới đó, ông gọi nó là Đợt sóng Thứ ba.

Toffler cho rằng trong lịch sử nhân loại có ba nền văn minh kế tiếp nhau: nền văn minh nông nghiệp, nền văn minh công nghiệp và nền văn minh hậu công nghiệp. ông dùng ẩn dụ đợt sóng để chỉ các nền văn minh đó, và sự va chạm của các đợt sóng để nói lên sự cùng tồn tại của những đợt sóng, sự thách thức của đợt sóng mới và sự tác động lẫn nhau của các đợt sóng, sự thay thế của đợt sóng mới đối với các đợt sóng cũ.

Cho tới nay, loài người đã trải qua hai đợt sóng thay đổi lớn. Đợt sóng Thứ nhất: sự ra đời của nông nghiệp và cùng với nó, nền văn minh nông nghiệp. Đó là bước ngoặt thứ nhất trong sự phát triển ,xã hội của loài người. Đợt sóng Thứ hai, sự ra đời của công nghiệp hóa, cùng với nó, nền văn minh công nghiệp.

Song trong những thập kỷ vừa qua, một bước ngoặt mới của lịch sử đã xảy ra. Trong thập kỷ bắt đầu từ năm 1955, ở Mỹ, người ta thấy số công nhân cổ trắng và các công nhân dịch vụ vượt quá số công nhân cổ xanh lần đầu tiên trong lịch sử. Đồng thời, cũng trong thập kỷ đó, người ta còn được chứng kiến sự du nhập rộng rãi máy tính, các máy bay dân dụng có động cơ phản lực cũng như nhiều đổi mới khác có tác dụng to lớn. Theo A.Toffler, chính trong thập kỷ đó, Đợt sóng Thứ ba xuất hiện, nền văn minh hậu công nghiệp. Nó bắt đầu tập trung sức mạnh ở Mỹ, rồi sau đó lan dần vào nhiều quốc gia công nghiệp khác, bao gồm Anh, Pháp, Thụy Điển, Đức, Liên Xô (trước đây) và Nhật Bản.

Ngày nay, tất cả các quốc gia công nghệ cao đang bị rung chuyển vì đợt sóng thứ ba xung đột với các nền kinh tế và các thể chế đã lỗi thời của đợt sóng thứ hai.

Những đợt sóng không tách biệt nhau, trên thực tế, chúng xen kẽ, lồng vào nhau. Ngay khi quá trình này tiếp diễn, thì một quá trình khác, quan trọng hơn, cũng đã bắt đầu. Khi nền văn minh công nghiệp thay thế nền văn minh nông nghiệp thì không phải vì thế, nền văn minh nông nghiệp đã hoàn toàn biến mất. Nó vẫn tồn tại, nhưng ngày càng bị nền văn minh công nghiệp dồn nén, hạn chế, làm cho nó mất dần vai trò và tác dụng. Hay là khi chủ nghĩa công nghiệp đã lên tới đỉnh cao trong những thập kỷ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thì Đợt sóng Thứ ba, ít được biết đến, cũng đã bắt đầu xuất hiện trên trái đất, làm biến đổi mọi cái nó đụng phải. Vì thế nhiều nước đang cảm thấy sự tác động đồng thời của hai, thậm chí của ba đợt sóng khác hẳn nhau.

Khi một đợt sóng thay đổi chiếm ưu thế trong một xã hội, thì mô hình phát triển tương lai vẫn tương đối dễ nhận thấy. Như ở Châu Âu, thế kỷ XIX, nhiều nhà tư tưởng, các nhà lãnh đạo kinh doanh, các chính khách dễ có một hình ảnh rõ ràng về tương lai và hình ảnh đó về căn bản là đúng. Trái lại, khi một xã hội chịu sự tác động của hai hoặc ba đợt sóng khổng lồ mà không có đợt sóng nào thống trị rõ ràng, thì hình ảnh về tương lai thật là không rõ ràng. Sẽ thật là khó nhận thức được ý nghĩa của những sự thay đổi và những xung đột đang xuất hiện. "Sự xung đột của các mặt sóng tạo ra một đại dương gầm thét, đầy những luồng nước xô đẩy nhau, những cơn lốc, những dòng xoáy, che dấu những dòng chảy lịch sử sâu hơn, quan trọng hơn” (tr.23).

Trong tình trạng đó, thường xuất hiện những quan niệm bi quan, yếm thế. Trên thực tế, vẫn có một trật tự khác biệt ẩn giấu, chỉ nhận thức được khi chúng ta phân biệt được những sự thay đổi mà đợt sóng thứ ba mang lại với những sự thay đổi gắn liền với đợt sóng thứ hai đang giảm dần. Những biến cố phức tạp và hỗn loạn đó của thế giới ngày nay chỉ nói lên rằng đợt sóng thứ ba đã xuất hiện và sự va chạm của nó với đợt sóng thứ hai là sự mở đầu của quá trình nó đang dâng lên, thay thế đợt sóng thứ hai.

A.Tollfer coi sự thay thế nền văn minh công nghiệp bằng nền văn minh họa công nghiệp là có một tính chất cách mạng không thể nghi ngờ. Ông viết:

"Những sự thay đổi đang gây nên những sự xáo trộn mà ngày nay chúng ta đang trải qua, đều không phải là hỗn loạn, cũng không có tính chất ngẫu nhiên, mà thực ra, chúng đang tạo ra một mô hình rõ nét, được nhận biết rõ ràng. Ngoài ra... những sự thay đổi ấy được tích lũy lại… chúng kết hợp với một sự chuyển hóa khổng lồ trong cách ta sống, lao động, chơi đùa và suy nghĩ… có thể có một tương lai lành mạnh và đáng mong muốn. Nói tóm lại… cái đang xảy ra hiện nay chẳng phải cái gì khác hơn là một cuộc cách mạng toàn cầu, một bước nhảy vọt trong lịch sử” (tr. 18, 19).


Trang: 1/4 1 2 3 4 »

Chủ nghĩa tư bản phiên bản 3.0


Nguyễn Đình Huy dịch
Nhà xuất bản trẻ

“ Trong Chủ nghĩa tư bản Phiên bản 3.0, Peter Barnes biện hộ cho cộng sản một cách thẳng thắn và dứt khoát. Đây là một cuốn sách cần thiết về một chủ đề hệ trọng”.
(Bill McKibben)

Công sản - những tạo phẩm của thiên nhiên và xã hội mà chúng ta cùng thừa kế và có bổn phận giữ gìn cho con cháu - đang bị phong tỏa. Chủ nghĩa tư bản phiên bản 2.0 đã toàn cầu hóa vớt sự thao túng của các Công ty - đang nhanh tay phung phá di sản chung này. Nay Peter Barnes đưa ra một giải pháp: bảo vệ công sản bằng cách trao cho công sản những quyền sở hữu và những thể chế quản lý hữu hiệu.

Barnes cho thấy chủ nghĩa tư bản - tựa như một máy tính - hoạt động nhờ một hệ điều hành. Hệ điều hành hiện nay của chủ nghĩa tư bản trao quá nhiều quyền hành cho những Công ty chỉ lo tối đa hóa lợi nhuận xâu xé công sản và phân phát hầu hết lợi nhuận cho một thiểu số rất nhỏ. Còn Chính phủ - trên lý thuyết có nhiệm vụ bảo vệ công sản - lại thường xuyên trở thành công cụ của chính các Công ty đó.

Barnes đề nghị một hệ điều hành đã được chỉnh sửa - Chủ nghĩa tư bản Phiên bản 3.0 - để bảo vệ công sản. Phát kiến lớn nhất của ông chính là quỹ tín thác công sản, một thực thể pháp nhân theo cơ chế thị trường có thẩm quyền hạn chế việc sử dụng các công sản khan hiếm thu tiền thuê và trả cổ tức - dưới hình thức tiền mặt và lợi ích sử dụng - cho tất cả mọi người.

Trong tầm nhìn của Barnes, một loạt quỹ tín thác công sản sẽ thể chế hóa các nghĩa vụ của chúng ta đối với các thế hệ tương lai, đồng bào và thiên nhiên. Một khi được hình thành, các quỹ tín thác đó sẽ sử dụng thị trường và quyền sở hữu để tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn cho mọi người.

Chủ nghĩa tư bản Phiên bản 3.0 đề ra một giải pháp thực tế cho hệ điều hành đang bị lỗi của chủ nghĩa tư bản hiện nay.


MỤC LỤC

Lời mở đầu
Lời cảm ơn

PHẦN I: VẤN ĐỀ

Chương 1: Đã đến lúc nâng cấp
Chương 2: Lược sử Chủ nghĩa tư bản
Chương 3: Những hạn chế của Chính phủ
Chương 4: Những hạn chế của tư hữu hóa

PHẦN II: MỘT GIẢI PHÁP

Chương 5: Tái tạo công sản
Chương 6: Người nhận ủy thác quản lý công trình thiên nhiên
Chương 7: Những quyền đương nhiên có phổ quát
Chương 8: Chia sẻ văn hóa

PHẦN III: BIẾN THÀNH HIỆN THỰC

Chương 9: Xây dựng khu vực công sản
Chương 10: Những việc bạn có thể làm


LỜI MỞ ĐẦU

Tôi là một doanh nhân. Tôi tin rằng xã hội nên tưởng thưởng cho những sáng kiến có hiệu quả bằng lợi nhuận. Đồng thời tôi biết rằng các hoạt động kiếm lời cũng phát sinh tác hại. Chúng gây ô nhiễm, chất thải, bất bình đẳng, lo lắng và không ít hoang mang về mục đích cuộc đời.

Tôi cũng là người theo đường lối tự do, theo nghĩa tôi không phản đối việc Chính phủ đóng một vai trò trong xã hội. Tuy nhiên, lịch sử đã làm tôi tin rằng Chính phủ dân cử không thể bảo vệ đúng mức quyền lọ của thường dân, chứ chưa nói đến quyền lợi của các thế hệ tương lai, các hệ sinh thái và các chủng loài ngoài con người. Lý do là Chính phủ hầu như luôn luôn - mặc dầu không phải mọi lúc - đặt quyền lợi của các Công ty tư nhân lên hàng đầu. Đây là một trục trặc hệ thống của nền dân chủ tư bản, không phải chỉ là vấn đề bầu chọn lãnh đạo mới.

Nếu bạn cùng có những cảm nhận như trên, có lẽ bạn cũng sẽ cảm thấy hoang mang mất tinh thần như tôi gần đây. Nếu Chủ nghĩa tư bản như chúng ta biết bị sai lỗi căn cơ như vậy và Chính phủ không phải là người cứu vớt, vậy đặt hy vọng vào đâu?

Tôi thấy đây quả là một trong những vấn nạn lưỡng nan lớn của thời đại chúng ta. Suốt bao năm Phe Hữu vẫn nói - đúng ra là la lên - rằng Chính phủ vốn đã mắc khuyết tật nên chỉ có tư hữu hóa, bãi bỏ quy định và cắt giảm thuế mới cứu được chúng ta. Cũng suốt chừng ấy năm, Phe Tả một hai cho rằng thị trường vốn sẵn khuyết tật nên chỉ có Chính phủ mới cứu được chúng ta. Vấn đề là ở chỗ cả hai phe đều nửa đúng, nửa sai. Cả hai đều đúng khi cho rằng thị trường và Nhà nước đều mắc khuyết tật và cả hai đều sai khi cho rằng có thể tìm sự cứu rỗi ở một trong hai lĩnh vực đó. Nhưng nếu như vậy thì chúng ta phải làm gì đây? Dường như đang thiếu một loạt những thể chế có thể giúp được chúng ta?

Tôi bắt đầu nghiền ngẫm về vấn đề khó xử này cách đây mười năm sau khi nghỉ việc ở Working Assets về hưu, một Công ty tôi đồng sáng lập vào năm 1982. (Working Assets cung cấp các dịch vụ điện thoại và thẻ tín dụng để lấy tiền tài trợ trực tiếp cho các nhóm phi lợi nhuận đang hoạt động vì một thế giới tốt đẹp hơn). Thoạt đầu tôi tập trung suy nghĩ về sự thay đổi khí hậu do việc con người thải ra các loại khí cản nhiệt. Một số nhà phân tích coi đây là một "bi kịch của công sản " Khái niệm này được phổ biến bởi nhà sinh học Garrett Hardin. Ông cho rằng con người sẽ mãi thâm dụng của chung (công sản) để thu tư lơi. Tôi lại thấy vấn đe đó là hai bi kịch chứ không phải một: trước hết là một bi kịch của thị trường vì thị trường không thể nào hạn chế được những quá trớn của chính nó, sau đó là một bi kịch của Chính phủ vì Chính phủ không thể bảo vệ được khí quyển bởi các Công ty gây ô nhiễm thì rất quyền lực mà các thế hệ tương lai lại đâu có bỏ phiếu được.

Cách nhận định tình hình này dẫn đến một giả thuyết: nếu công sản là một nạn nhân của sự bất lực của thị trường và Chính phủ chứ không phải là một nguyên nhân gây nên sự tự hủy diệt, giải pháp có lẽ ở chỗ củng cố công sản. Nhưng củng cố làm sao? Thường hầu như ai cũng thấy rằng rất khó quản lý công sản vì không ai thực sự sở hữu công sản. Nếu Công ty Quản lý Chất thải Waste Management Inc. sở hữu khí quyển, hẳn họ sẽ thu phí những ai xả khí thải, giống như họ thu phí đổ rác vào các bãi chôn rác. Nhưng do không ai có quyền sở hữu đối với khí quyển nên khí thải cứ việc xả không hạn chế và miễn phí.

Dĩ nhiên có một lý do tại sao không ai có quyền sở hữu khí quyển. Xưa nay không khí thừa thãi nên chẳng việc gì phải sở hữu. Nhưng bây giờ hình ảnh đã khác. Bầu trời bao la không còn thênh thang như trước nữa. Chúng ta đã xả đầy vào đó những loại khí vô hình đang làm thay đổi những mô hình khí hậu vốn rất quen thuộc với chúng ta và các chủng loài khác. Trong bối cảnh mới này, khí quyển đang trở thành một tài nguyên khan hiếm, nên có người sở hữu là điều tốt.

Những ai nên sở hữu khí quyển? Câu hỏi này đã trở thành một loại công án Thiền đối với tôi, một băn khoăn tưởng chừng vô thưởng vô phạt nhưng nếu suy ngẫm sẽ mở ra nhiều cánh cửa không ngờ. Tôi cân nhắc khả năng thành lập một doanh nghiệp sở hữu bầu trời, hoạt động vì lợi nhuận, với mục đích cứu hành tinh, nói cho cùng trước đây tôi đã ăn nên làm ra nhờ làm điều tốt lành. Khi thấy ý tưởng đó không ổn, tôi tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu chứng ta, mọi người trong xã hội, thành lập một quỹ tín thác để quản lý khí quyển thay cho các thế hệ tương lai, còn các công dân ngày nay chỉ là những người thụ hưởng ăn theo bầu khí quyển đó. Một quỹ tín thác như vậy sẽ làm chính cái điều mà Waste Management Inc. sẽ làm nếu họ sở hữu bầu trời: thu phí những ai xả khí thải vào kho chứa đang teo dần của mình. Gây ô nhiễm sẽ phải trả nền nhiều hơn và vì vậy ô nhiễm sẽ giảm dần. Tất cả điều này sẽ xảy ra ngay khi bắt đầu trao giấy chứng nhận sở hữu cho quỹ tín thác mà không cần Chính phủ phải nhúng tay vào. Nhưng nếu quỹ tín thác này - chứ không phải Waste Management Inc hoặc một Công ty nào khác - sở hữu bầu trời sẽ có một bổng lộc tuyệt vời: mỗi người dân Mỹ sẽ được trả một khoản cổ tức hàng năm.

Dự tưởng này đã biến thành một đề án có tên là quỹ tín thác bầu trời và đã đạt được một số thành công về mặt chính trị. Nó cũng được dùng làm tâm điểm cho những suy tưởng rủa tôi về công sản, từ đó cuốn sách này ra đời.

Hành trình tìm hiểu của tôi

Quá trình tìm hiểu làm nền cho cuốn sách này bắt đầu từ lâu trước khi tôi thành lập Working Assets. Hồi còn nhỏ, tôi giúp ba tôi tính toán số liệu cho một số sách ông viết về thị trường chứng khoán. Sau này khi làm phóng viên cho tờ Newsweek và The New Republic, tôi viết hàng chục bài báo về các vấn đề kinh tế. Nhưng việc học kinh tế của tôi chỉ thực sự bắt đầu khi tôi ở vào tuổi ba mươi sau một cơn khủng hoảng tuổi trung niên, bỏ nghề báo và lao ngay vào nghiên cứu Chủ nghĩa tư bản.

Lúc ấy tôi có nhiều động cơ cùng lúc. Một mặt, tôi đã chán viết lách, cần tiền, và không muốn làm thuê cho người khác. Mặt khác, tôi muốn xem thử liệu những ý tưởng tôi đã lĩnh hội có ăn nhập gì với thực tế không. Tôi đã bi ảnh hưởng rất nhiều bởi các tác phẩm của nhà kinh tế học người Anh E. F. Schumacher. Trong cuốn Small Is Beautiful xuất bản năm 1973, ông lập luận rằng chủ nghĩa tư bản trật khớp một cách nguy hiểm với cả tự nhiên lẫn tâm thức con người. Giải pháp ông đề ra là một nền kinh tế gồm những doanh nghiệp quy mô nhỏ, thường do nhân viên làm chủ, và sử dụng công nghệ sạch.

Ghi tâm quan điểm của Schumacher, tôi bắt tay hành động ngay. Cùng với năm người bạn, tôi thành lập một Công ty năng lượng mặt trời do các nhân viên đồng sở hữu. Công ty phát triển mạnh cho đến khi những thay đổi về luật thuế xóa sổ ngành công nghiệp non trẻ này vào năm 1980. Lúc ấy thì tôi đã dấn khá sâu vào một sự nghiệp thứ hai kéo dài 20 năm, trong thời gian đó tôi thành lập các quỹ đầu tư tập thể và các Công ty điện thoại, có chân trong Hội đồng quản trị rủa các Ngân hàng và hãng sản xuất, và đầu tư vào vô số lĩnh vực kinh doanh khác. Tất cả công việc kinh doanh kể trên đều có chung một điểm là vừa kiếm lời vừa cải thiện thế giới. Những người quản lý đều hết mình đi theo định hướng đa mục nêu: họ biết phải làm ăn có lời nhưng cũng phải theo đuổi những mục tiêu xã hội và môi trường.

Phần lớn thời gian đó tôi giữ chức Chủ tịch của Working Assets. Công ty này tài trợ 1% tổng doanh số của mình cho các nhóm phi lợi nhuận hoạt động để cải thiện thế giới. Những khoản tài trợ này được trích tứ tổng doanh thu chứ không phải từ lãi ròng, Công ty vẫn tài trợ dù làm ăn có lời hay không (và nhiều năm chúng tôi không có lời). Tôi nhận ra rằng nếu Công ty nào đóng góp 1% doanh số cho xã hội thì cũng chỉ là một khoản nhỏ vô cùng vì các doanh nghiệp lấy đi rất nhiều từ xã hội mà không phải trả nền. Chẳng hạn, chúng ta có thể sản xuất hàng hóa gì cho được nếu không có những tặng phẩm miễn phí của thiên nhiên? Và làm sao chúng ta có thể bán được những hàng hóa đó nếu không nhờ cơ sở hạ tầng rộng lớn của xã hội gồm luật pháp, đường sá, tiền bạc... Tôi vẫn nghĩ chỉ nội việc được là một Công ty trách nhiệm hữu hạn thì chúng ta đã phải trích trả 1% cho đặc quyền đó.

Tôi cũng có ý nghĩ rằng bằng cách chứng tỏ cho các Công ty khác thấy là họ có thể trích trả 1% từ doanh số mà vẫn sống được, Working Assets có thể khởi xướng một phong trào nhằm cải thiện thế giới. Ý nghĩ này hầu như không tưởng, nhưng không phải hoàn toàn phi lô-gíc. Tôi cho rằng 1% trích trả này cũng giống như một gen biến đổi được thêm vào DNA của chúng ta. Nếu tồn tại được trên thị trường, nó có thể lan rộng. Tại các khóa định hướng cho nhân viên, tôi đã từng nói rằng Công ty của chúng tôi đang tìm cách làm sao cho những gen biết sống trách nhiệm với xã hội trở thành loại gen chủ đạo của doanh nghiệp trong tương lai.
Cuối cùng, sau khi rời Working Assets về hưu năm 1995, tôi bắt đầu suy nghĩ về cái thế giới kinh doanh từ đó tôi xuất thân. Tôi đã thử nghiệm hệ thống này trong vòng hai mươi năm, cố gắng hết sức đưa nó đi theo định hướng đa mục tiêu. Tuy nhiên cuối cùng tôi hiểu ra rằng tất cả những con người thành tâm đó, dù số lượng của họ có tăng lên, vẫn không lay chuyển nổi cả cái hệ thống rộng lớn chỉ lấy lợi nhuận làm mục tiêu chính yếu.

Nghĩ lại, tôi nhận ra câu hỏi tôi vẫn hằng đặt ra từ khi mới chập chững vào đời là: Chủ nghĩa tư bản có phải là một giải pháp tuyệt vời cho vấn đề khan hiếm hay chính nó lại là vấn đề trung tâm của thời hiện đại? Câu hỏi này có nhiều cấp độ, nhưng dù tìm hiểu cấp độ nào tôi cũng đi đến cùng một kết luận. Mặc dầu thoạt đầu chủ nghĩa tư bản là một giải pháp tuyệt vời nay nó đã trở thành một vấn đề của thời đại chúng ta. Nó đã làm tốt trong thời của nó, nhưng thời thế đã thay đổi.

Khi chủ nghĩa tư bản mới xuất hiện, thiên nhiên thật phong phú còn tư bản thì khan hiếm, vì vậy ưu tiên khuyến khẩu tư bản là hợp lẽ. Ngày nay chúng ta dư dật tư bản mà lại đang cạn nguồn thiên nhiên. Chúng ta cũng đang đánh mất nhiều thể chế xã hội có thể liên kết chúng ta thành cộng đồng và làm phong phú cuộc sống của chúng ta bằng những phương cách không dựa trên tiền bạc. Điều này có nghĩa chủ nghĩa tư bản cần phải điều chỉnh. Chúng ta phải điều chỉnh chủ nghĩa tư bản cho phù hợp với thế kỷ hai mốt chứ không phải thế kỷ XVIII và điều đó có thể thực hiện được.

Làm thế nào có thể chỉnh đốn cả một hệ thống rộng lớn và phức tạp như chủ nghĩa tư bản? Và làm sao làm điêu đó một cách êm thấm, hạn chế đau đớn và xáo trộn đến mức thấp nhất? Câu trả lời là làm như Bill Gates: nâng cấp hệ điều hành.

Phạm vi của cuốn sách này

Cũng giống như Hiến pháp đã đề ra các quy tắc cho Chính phủ, hệ điều hành kinh tế của chúng ta đề ra các quy tắc cho thương mại. Tôi dùng tính tử sở hữu chúng ta để nhấn mạnh rằng hệ điều hành kinh tế này thuộc về mọi người. Nó không phải là không thay đổi được, và chúng ta có quyền nâng cấp nó, cũng giống như chúng ta có quyền tu chính Hiến pháp vậy. Cuốn sách này giải thích tại sao chúng ta phải nâng cấp hệ điều hành hiện nay, một hệ điều hành mới có thể sẽ như thế nào, và chúng ta có thể cài đặt hệ điều hành mới cách nào.

Cuốn sách gồm ba phần. Phần một tập trung vào hệ điều hành hiện nay của chúng ta, một phiên bản tôi đặt tên là Chủ nghĩa tư bản Phiên bản 2.0 (Chủ nghĩa Tư bản Phiên bản 1.0 kết thúc vào khoảng năm 1950, như tôi sẽ giải thích trong Chương II). Tôi cho thấy hệ thống này xâu xé thiên nhiên, gia tăng bất bình đẳng. và vì vậy làm chứng ta phải khổ sở thế nào. Mặc dầu những vấn đề này nhiều độc giả cũng đã ý thức rồi, tôi vẫn xem xét lại để chứng định rằng những kết quả này không phải ngẫu nhiên - đó là những kết cuộc không thể tránh khỏi của phần mềm kinh tế của chúng ta. Điều này có nghĩa không thể chỉnh đốn chúng bằng cách vá víu bên ngoài. Nếu muốn chỉnh đốn, phải thay đổi bộ mã.

Phần II của cuốn sách tập trung vào chủ nghĩa tư bản trong tương lai, một phiên bản tôi đặt tên là Chủ nghĩa tư bản Phiên bản 3.0. Khác biệt chủ yếu giữa phiên bản 2.0 và phiên bản 3.0 là trong phiên bản 3.0 có thêm một loạt những ảnh mà tôi gọi là khu vực công sản. Thay vì chỉ có một động cơ - tức là khu vực tư nhân do các Công ty thống trị - hệ điều hành kinh tế đã nâng cấp của chúng ta sẽ hoạt động bằng hai động cơ: một động cơ để tối đa hóa lợi nhuận, động cơ kia để bảo tồn và phát huy công hữu.

Hai động cơ cùng hoạt động này - gọi là khu vực Công ty và khu vực công sản - sẽ tiếp sức và kiềm chế nhau. Một cái lo cho mặt "tôi" của chúng ta, còn cái kia phụ trách mặt "chúng ta". Khi cân bằng với nhau - và để đặt được sự cân bằng này Chính phủ phải nỗ lực rất nhiều - hai động cơ sẽ làm chúng ta thịnh vượng, an tâm, và hài lòng hơn là khi chỉ có một động cơ hoạt động như hiện nay. Và với hai động cơ cùng hoạt động, Trái đất sẽ không bi tàn phá.
Phần II đề xuất một số quyền sở hữu mới, quyền đương nhiên có, và những thể chế mới để bằng cách nào đó có thể mở rộng khu vực công sản. Tôi vẫn nghĩ rằng những đề xuất này kết hợp được hy vọng và hiện thực. Một số đề xuất cụ thể là:

• Một loạt những quỹ tín thác hệ sinh thái để bảo vệ không khí, nước, rừng, và môi sinh.
• Một quỹ đầu tư tập thể để thanh toán cổ tức cho mọi người dân Mỹ - mỗi người một cổ phần.
• Một quỹ tín thác để cấp vốn khởi nghiệp cho mọi trẻ em.
• Một quỹ chia sẻ rủi ro về y tế cho một người.
• Một quỹ quốc gia dựa trên phí bản quyền để hỗ trợ nghệ thuật địa phương.
• Một hạn chế về lượng quảng cáo.

Phần cuối của cuốn sách giải thích lộ trình để đi đến Chủ nghĩa tư bản Phiên bản 3.0, cách hoạt động của các mô hình và các bạn cùng tôi có thể đóng góp gì.

Những nhân vật xuyên suốt cuốn sách này là các Công ty, Chính phủ, và công sản. Cốt chuyện đại khái như thế này. Khi màn kéo lên, các Công ty đang vơ vét công sản. Họ luôn ở thế thượng phong, còn công sản - một sự pha trộn vô tổ chức thiên nhiên, cộng đồng, và văn hóa - luôn là kẻ thua cuộc. Công sản không có quyền sở hữu cho riêng mình nên phải nhờ Chính phủ bảo vệ. Nhưng Chính phủ lại là một người bảo hộ bất nhất, chuyên thiên về phe các Công ty.

Thật may, các Công ty chỉ chi phối Chính phủ hầu hết thời gian mà thôi, có lúc họ cũng lơi tay. Vì vậy có thể hình dung ra rằng lần tới khi sự thống trị của các Công ty suy giảm, Chính phủ - thay mặt cho dân thường - sẽ nhanh chóng củng cố công sản Chính phủ giao quyền sờ hữu mới cho các quỹ tín thác công sản, xây dựng cơ sở hạ tầng công sản và tạo nên một giai cấp mới gồm các đồng sở hữu chủ đúng nghĩa. Khi các Công ty giành lại sự thống trị về chính trị và chắc chắn sẽ thế, họ không thể phá bỏ hệ thống mới. Công sản giờ đây đã có những cơ chế bảo vệ và các cổ đông, công sản đã đủ vững vàng để trường tồn. Và sẽ đến lúc các Công ty chấp nhận công sản là đối tác làm ăn của mình. Họ nhận thấy mình vẫn có thể kiếm lời, vạch kế hoạch phát triển rộng hơn và thậm chí có khả năng cạnh tranh hơn trên quy mô toàn cầu.

Không đề xuất nào đưa ra trong cuốn sách này có thể thành công trong nay mai. Mà đó cũng không phải là mục đích của tôi. Mục đích của tôi là thắp lên một ngọn đèn, để mọi người thấy được loại hệ thống chúng ta sẽ xây dựng, từng chút một, khi có cơ hội. Tôi thấy việc xây dựng hệ thống như vậy là một quá trình kéo dài hàng thập kỷ trong đó sẽ có những giai đoạn thay đổi nhanh chóng. Công việc này có sự tham gia của các doanh nghiệp và nhà chính trị, các nhà kinh tế và luật sư, các công dân và những người hướng dẫn dư luận ở mọi cấp. Để khỏi lạc đường, chúng ta cần một kim chỉ nam. Và tôi hy vọng cuốn sách này sẽ làm được vai trò kim chỉ nam đó.