Thứ Tư, 12 tháng 3, 2008

TRONG CÕI - TQV


Tác phẩm "Trong cõi" của cố GS Trần Quốc Vượng do NXB Trăm Hoa, California xuất bản năm 1991 bao gồm những bài nói chuyện, phát biểu trong thời gian SG sang Mỹ - tác phẩm hiện chưa phổ biến ở VN nhưng trong giới học giả Phương Tây tác phẩm này được đánh giá khá cao - về một mặt nào đó ( bỏ qua khía cạnh chính trị của tác phẩm) thì đây là cuốn sách hay nói về Văn Hóa VN quá khứ cũng như hiện tại xin giới thiệu cùng quý độc giả cùng đọc và suy ngẫm một TP còn sót của của "vị SG lắm tài nhiều tận" này.

MỤC LỤC

1. Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng
2. Mấy ý kiến về trống đồng và tâm thức Việt cổ
3. Từ huyền tích đến lịch sử (mấy vấn đề phương pháp luận và phương pháp cụ thể)
4. Tây Sơn Quang Trung và công cuộc đổi mới đất Việt ở thế kỷ XVIII
5. Đô thị cổ Việt Nam
6. Vị thế địa-lịch sử và bản sắc địa-văn hoá của Hội An
7. Một cách nhìn văn hoá học về Văn Miếu - Quốc Tử Giám
8. Hội hè dân gian
9. Căn bản triết lý người anh hùng Phù Đổng và hội Gióng
10. Triết lý trầu cau
11. Triết lý bánh chưng bánh dày
12. Một thời đã qua, một thời đang tới
13. Dân gian và bác học
14. Việt Nam: 100 năm giao thoa văn hoá Đông-Tây
15. Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (Kinh nghiệm điền dã)
16. Xây dựng một nền văn hoá Việt Nam nhân bản, dân tộc, dân chủ, khoa học
17. Nỗi ám ảnh của quá khứ

Địa chỉ dow sách tại:http://ifile.it/zoh9jdg

222 magnify
-------------->TỦ SÁCH VĂN HÓA HỌC <--------------

"The End of History?"


Võ Tấn Phong dịch


Mười lăm năm trước, trong cuốn Sự cáo chung của lịch sử và con người cuối cùng (The End of History and the Last Man), tôi đã viết là, nếu một xã hội muốn hiện đại hóa, không có lựa chọn nào khác hơn là một nền kinh tế thị trường và một hệ thống chính trị dân chủ. Không phải ai cũng muốn được hiện đại, dĩ nhiên rồi, và không phải ai cũng có thể lập ra những thiết chế và chính sách cần thiết để nền dân chủ và chủ nghĩa tư bản được thành công, nhưng không có hệ thống nào khác đem lại kết quả tốt hơn.

Trong khi cuốn Sư cáo chung của lịch sử vì thế về bản chất là một lý luận về hiện đại hóa, một số người lại gán ghép luận thuyết của tôi về sự cáo chung của lịch sử với chính sách đối ngoại của Tổng thống George W. Bush và quyền bá chủ có tính chiến lược của Mỹ. Nhưng nếu ai đó cho rằng những suy nghĩ của tôi là nền tảng lý luận cho những chính sách của chính phủ Bush thì người đó đã không để ý đến những gì tôi đã nói từ năm 1992 về dân chủ và phát triển.

Tổng thống Bush lúc đầu đã biện hộ cho việc can thiệp vào Iraq trên lý do là những chương trình phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt của Saddam, mối liên hệ giữa chính quyền Iraq và al-Qaida, cũng như sự vi phạm nhân quyền và thiếu dân chủ của Iraq. Khi hai lý do đầu tiên sụp đổ lúc mở màn cuộc xâm chiếm năm 2003, chính quyền Mỹ ngày càng nhấn mạnh vào sự quan trọng của dân chủ, cả ở Iraq và ở mức độ lớn hơn là vùng Trung Đông, như một yếu tố căn bản cho hành động của mình.

Bush nói rằng mong ước tự do và dân chủ là phổ quát và không phụ thuộc vào văn hóa, và rằng nước Mỹ sẽ tận lực hỗ trợ những phong trào dân chủ “với mục tiêu cuối cùng là chấm dứt chính thể bạo ngược trên thế giới.” Những người ủng hộ chiến tranh thấy quan điểm của họ được củng cố ở những ngón tay đen màu mực của những cử tri Iraq xếp hàng đi bầu trong những cuộc bầu cử giữa tháng 1 và tháng 12 năm 2005, trong cuộc Cách mạng Tuyết Tùng ở Lebanon [1] , và trong những cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội ở Afghanistan.

Dầu những sự kiện này có phấn khởi và hy vọng đến mấy, con đường đến nền dân chủ tự do ở Trung Đông có lẽ cực kỳ gây thất vọng trong tương lai gần, và những cố gắng của chính phủ Bush nhằm xây dựng một chính sách vùng quanh nó đang thất bại thê thảm.

Chắc chắn là niềm mong mỏi được sống trong một xã hội hiện đại và được thoát khỏi chính thể bạo ngược phổ quát, hoặc cũng gần như phổ quát. Nó được minh chứng bằng cố gắng của hàng triệu người mỗi năm di cư từ những nước đang phát triển sang các nước phát triển, ở nơi mà họ hy vọng tìm thấy ổn định chính trị, cơ hội việc làm, y tế, và giáo dục, vốn không có ở quê nhà họ.

Nhưng chuyện này khác với nói rằng có một mong muốn phổ quát được sống trong một xã hội tự do – nghĩa là, một trật tư chính trị được quy định bằng những quyền cá nhân và và hệ thống luật pháp. Mong ước được sống trong một nền dân chủ tự do, thực vậy, là cái đạt được dần theo thời gian, thường là một phụ sản của quá trình hiện đại hóa thành công.

Hơn nữa, mong ước được sống trong một xã hội dân chủ tự do không nhất thiết phải chuyển thành hành động thực tế. Chính phủ Bush dường như trong chính sách hậu-Saddam cho rằng cả nền dân chủ và một nền kinh tế thị trường là những điều đương nhiên xảy ra trong xã hội một khi chính quyền bạo ngược được xóa bỏ, chứ không phải là một loạt những thiết chế phức tạp, phụ thuộc lẫn nhau cần phải được cẩn thận bồi đắp dần dần.

Rất lâu trước khi có một nền dân chủ tự do, cần phải có một nhà nước vận hành tốt (cái không hề bị biến mất ở Đức hay Nhật sau khi bị thua trận ở Thế Chiến II). Đây là cái chúng ta không thể coi là điều đương nhiên ở những quốc gia như Iraq.

Sự cáo chung của lịch sử không hề nói đến một mô hình xã hội hay tổ chức chính trị đặc trưng kiểu Mỹ nào cả. Kế tục Alexandre Kojève [2] , triết gia Pháp gốc Nga, người đã gây hứng cho lập luận ban đầu của tôi, tôi tin rằng Liên hiệp châu Âu (European Union) phản ánh chính xác thế giới sẽ ra sao vào lúc lịch sử cáo chung hơn là Liên bang Hoa Kỳ. Cố gắng của Liên hiệp châu Âu nhằm vượt qua nền chính trị chủ quyền và quyền lực truyền thống bằng cách thiết lập một hệ thống luật pháp xuyên quốc gia, là gần gũi với một thế giới “hậu-lịch sử” hơn là niềm hằng tin vào Chúa, vào chủ quyền quốc gia, và vào quân sự của người Mỹ.

Cuối cùng, tôi không hề liên hệ sự phát triển dân chủ toàn cầu với hành động của Mỹ, và đặc biệt không liên hệ với việc sử dụng sức mạnh quân sự Mỹ. Những chuyển tiếp sang dân chủ cần phải được thúc đẩy bởi những xã hội muốn dân chủ, và bởi vì xã hội muốn dân chủ thì cần có những thiết chế, nó thường là một quá trình khá lâu dài và khó nhọc.

Những cường quốc bên ngoài như Mỹ thường có thể thúc đẩy quá trình này bằng cách làm gương tốt như những xã hội chính trị và kinh tế thành công. Họ cũng có thể cung cấp tài chính, cố vấn, trợ giúp kỹ thuật, và đúng vậy, đôi khi dùng quân sự để thúc đẩy quá trình đó. Nhưng cưỡng bức thay đổi chế độ không bao giờ là lời giải đáp cho sự chuyển tiếp dân chủ cả.




[1]Nguyên văn “Cedar Revolution in Lebanon”: một loạt các cuộc biểu tình của dân chúng Lebanon (nhất là thủ đô Beirut) tiếp sau sự ám sát cựu thủ tướng Rafik Hariri vào 14 tháng 2 năm 2005, dẫn đến sự triệt thoái của quân đội Syria khỏi Lebanon, và chính quyền dân chủ được bầu nên. Cedar (cây tuyết tùng, là biểu tượng trên quốc kỳ Lebanon).
[2]Alexandre Kojève (1902-1968): nhà triết học Pháp gốc Nga có ảnh hưởng lớn đến nền triết học Pháp thế kỷ 20.


Nguồn: http://www.project-syndicate.org/commentary/fukuyama3
Nguyên bản tiếng anh có tại địa chỉ : http://ifile.it/ei1cb6z

Nguyên bản tiếng việt có tại: http://ifile.it/ei1cb6z

Sự va chạm giữa các nền văn minh - Samuel Huntington


Sự đụng độ giữa các nền văn minh là một lý giải của Samuel Hungtington về những mâu thuẫn và xung đột trên thế giới hiện nay, đồng thời là một lời cảnh báo đối với nhân loại về nền hoà bình và tương lai của thế giới.

Tên đầy đủ của cuốn sách này là: “Sự va chạm của các nền văn minh và việc thiết lập lại trật tự thế giới” (The Clash of civilization and the remaking of world order).

Samuel Hungtington không phải là người đầu tiên nói về sự va chạm của các nền văn minh. Ý tưởng và sự cảnh báo về sự đụng độ giữa các nền văn minh đã xuất hiện ngay từ giữa thế kỷ XX, do nhà sử học nổi tiếng người Anh Arnold Toynbee đề xướng.

Năm 1993, S. Hungtington, khi đó là Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược thuộc Đại học Harvard, đã có bài viết mang tính dự báo: “Sự va chạm của các nền văn minh?”. Tiêu đề đó cho thấy tác giả của nó có phần hoài nghi: liệu có khả năng xảy ra sự đụng độ giữa các nền văn minh trong thế kỷ XXI hay không? Và thực tế, nội dung của bài viết đã nói lên rằng sự đụng độ là điều khó tránh khỏi. Năm 1996, Hungtington tiếp tục phát triển dự báo của mình thành cuốn sách “Sự va chạm của các nền văn minh và việc thiết lập lại trật tự thế giới”.

Một thế giới của các nền văn minh khác biệt

Trong cuốn sách của mình, S. Hungtington đã vẽ lại bức tranh chung về các nền văn minh khác nhau trên thế giới. Về cơ bản, ông phân chia nhân loại thành 2 bộ phận là văn minh phương Tây và văn minh ngoài phương Tây, trong đó văn minh phương Tây đóng vai trò trung tâm trong các phân tích của ông, là điểm tham chiếu để xem xét các nền văn minh khác ngoài phương Tây.

Trên cơ sở xác định các nền văn minh chủ yếu của thế giới, Hungtington tiếp tục làm sáng tỏ những thay đổi về cán cân giữa các nền văn minh, giải thích sự thoái trào của văn minh phương Tây và quá trình phục sinh các nền văn minh ngoài phương Tây. Ông cũng chỉ ra một trật tự mới của các nền văn minh cùng với sự tái định hình nền chính trị toàn cầu thông qua văn hoá.

Một trong những phát hiện của S. Hungtington là sự nhìn nhận vai trò của nhà nước chủ chốt trong sự hình thành và phát triển của một nền văn minh nhất định. Đó là nhà nước dẫn đầu của khối các nhà nước đồng văn, đồng chủng và đồng ngôn (ngôn ngữ). Hungtington đã có những phân tích đáng ngạc nhiên về 2 trường hợp của nước Nga (với các nước láng giềng) và Trung Hoa đại lục (với các nước Đông Á) nhằm minh chứng cho luận điểm này.

Sự đụng độ giữa các nền văn minh

Quan điểm này xuất phát từ chỗ cho rằng, trong thế giới mới đang hình thành, nguồn gốc của các xung đột sẽ không còn là hệ tư tưởng và kinh tế nữa, mà là văn hoá, hay nói chính xác hơn, sự khác biệt giữa các nền văn hoá là cơ sở của các nền văn minh khác nhau.

Hungtington định nghĩa văn minh như là một cộng đồng văn hoá bậc cao, là mức độ rộng nhất của tính đồng nhất văn hoá của con người. Ông khẳng định, những khác biệt giữa các nền văn minh có ý nghĩa căn bản hơn so với những khác biệt giữa các hệ tư tưởng chính trị và các chế độ chính trị. Theo Hungtington, trong thế kỷ XXI, sự xung đột giữa các nền văn minh sẽ là nhân tố chủ đạo của nền chính trị thế giới, đặc biệt là giữa văn minh phương Tây và văn minh không phải phương Tây.

Hungtington đã phân tích các nhân tố cơ bản đẩy loài người đi tới sự xung đột giữa các nền văn minh. Qua đó, ông kết luận: sự va chạm của các nền văn minh được triển khai theo 2 cấp độ là vi mô và vĩ mô.

Ở cấp vi mô, những nhóm người sống dọc theo các tuyến đứt gãy giữa các nền văn minh đang tiến hành đấu tranh, thường là có đổ máu, để giành giật đất đai và quyền lực đối với nhau. Ở cấp vĩ mô, các nước thuộc các nền văn minh khác nhau đang cạnh tranh giành ảnh hưởng trong lĩnh vực quân sự và kinh tế, tranh giành quyền kiểm soát các tổ chức quốc tế và các nước thứ ba, cố gắng khẳng định các giá trị chính trị và tôn giáo của mình.

Hungtington dự báo, sự va chạm giữa các nền văn minh sẽ đưa lại 2 hệ quả quan trọng: một là, các trục chủ yếu của nền chính trị thế giới sẽ là quan hệ giữa phương Tây và phần còn lại của thế giới; hai là, trong tương lai, lò lửa xung đột cơ bản sẽ là mối quan hệ qua lại giữa phương Tây và một loạt các nước Hồi giáo - Khổng giáo.

Tương lai của các nền văn minh hay tương lai của thế giới

Những tư tưởng của S. Hungtington trong cuốn sách này đã mở ra hướng đi mới cho cộng đồng thế giới trong việc tìm kiếm giải pháp để hạn chế những xung đột quốc gia, khu vực và toàn cầu do sự khác biệt của các nền văn minh gây ra. Xu hướng khả thi và tích cực nhất có lẽ là hướng tới cuộc đối thoại giữa các nền văn minh, để đưa nhân loại xích lại gần nhau hơn.

Ngày 2/11/2001, ngay sau sự kiện khủng bố ngày 11/9 làm xấu đi mối quan hệ giữa phương Tây và thế giới Hồi giáo, UNESCO đã lập tức thông qua “Tuyên bố chung về sự đa dạng văn hoá” - một văn kiện được đánh giá là quan trọng không kém so với "Tuyên bố chung về quyền con người". Tuyên bố này đã phát triển những luận giải của S. Hungtington thành một kết luận mang ý nghĩa toàn cầu: đối thoại giữa các nền văn hoá là sự bảo đảm tốt nhất cho hoà bình thế giới.

UNESCO cũng đã xác định chủ đề đối thoại giữa các nền văn minh là mục tiêu chiến lược của mình trong giai đoạn 2002-2007. Ngày 9/11/2001, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc cũng đã thông qua nghị quyết “Chương trình nghị sự chủ yếu để đối thoại giữa các nền văn minh” với một chương trình hành động cụ thể đề ra cho tương lai.

Có thể nói, những động thái đó của tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới đã cho thấy nỗ lực to lớn của cộng đồng quốc tế nhằm kiến tạo một nền hoà bình vĩnh cửu cho nhân loại, trong đó cuộc đối thoại giữa các nền văn minh được xem là mục tiêu lớn nhất cần đạt tới. Và theo một nghĩa nào đó, những kết quả nghiên cứu của S.Hungtington đã không chỉ dừng lại ở giá trị lý luận, mà còn góp phần hướng nhân loại vào những hành động thực tế cấp thiết để duy trì và phát triển thế giới này trong sự tồn tại hoà bình và bền vững.


Xuân Tùng



Mục lục


Bản chất của các nền văn minh

Tại sao các nền văn minh không tránh khỏi đụng độ với nhau?


Tại sao lại như vậy?


Ranh giới giữa các nền văn minh


Tập hợp nền Văn minh: Hội chứng ”quốc gia thân tộc”


Phương Tây đốí đầu với phần còn lại của thế giới

Các nước phân rã

Khối Nho giáo - Hồi giáo


Những hàm ý đối với Phương Tây

Chú thích



Bản tiếng anh


Địa chỉ dow sách : http://ifile.it/9mfu07s

Kiến trúc khu vực Ðông Á


Kiến trúc khu vực Ðông Á: những phối trí an ninh và kinh tế mới và chính sách của Hoa Kỳ

Dick K. Nanto

(Tường trình RL33653 của CRS cho Quốc hội Hoa Kỳ 18 tháng Chín, 2006)

Khiêm dịch

Tóm tắt

Sự kết thúc của chiến tranh lạnh, sự trỗi dậy của Trung Quốc, toàn cầu hóa, các thỏa ước mậu dịch tự do, cuộc chiến chống khủng bố, và cách tiếp cận qua các thiết chế để gìn giữ hòa bình đang gây nên những sự chuyển hướng ngoạn mục trong quan hệ giữa các quốc gia Đông Á. Một kiến trúc khu vực mới ở dạng các phối trí chính trị, tài chính, và mậu dịch giữa các quốc gia Đông Á, đang được hình thành, và sẽ có tác động đáng kể đối với chính sách và quyền lợi của Hoa Kỳ. Bản tường trình này thẩm định lại kiến trúc khu vực này với trọng tâm là Trung Quốc, Nam Hàn, Nhật Bản, và Đông Nam Á. Những kiểu phối trí bao gồm các Thỏa ước Mậu dịch Tự do Song phương (FTA), các hiệp ước mậu dịch khu vực, các phối trí tiền tệ, và các phối trí an ninh và chính trị.

Kiến trúc khu vực Đông Á được chống đỡ bởi hai chân chống riêng biệt. Chân chống kinh tế rất vững và đang lớn mạnh hơn. Một mạng lưới các FTA khu vực và song phương đang phát triển. Cả FTA Đông Á (gồm 13 quốc gia) lẫn FTA Á Châu (gồm 16 quốc gia) đang được thảo luận cùng lúc. Ngược lại, chân chống an ninh và chính trị vẫn còn tương đối kém phát triển. Bước tiến bộ nhất đã được thực hiện với Hiệp hội các Quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) đóng vai trò người triệu tập các hội nghị và có dạng của Cộng đồng An ninh ASEAN (10 quốc gia Đông Nam Á) và Diễn đàn Khu vực ASEAN (25 quốc gia, gồm cả Hoa Kỳ). Ở Đông Bắc Á, các cuộc đàm phán sáu bên nhằm hướng tới giải quyết chương trình hạt nhân của Bắc Hàn đang được tổ chức như một sự vụ riêng lẻ.

Khi chính sách của Hoa Kỳ đối với các phối trí an ninh và kinh tế ở Đông Á tiến hóa, nó hướng đến các vấn đề cường độ, sự dung nạp thành viên, và kết cấu chung cuộc. Hoa Kỳ có nên tăng cường các cố gắng của mình hoặc để cản trở hoặc để hỗ trợ kiến trúc này? Ai sẽ được bao gồm trong các phối trí này? Có nên chỉ liên kết các quốc gia châu Á? Về mặt kinh tế, chính sách hiện tại của Hoa Kỳ có vẻ giữ thế thủ, qua cách không cố ngăn chặn những nỗ lực nhằm tạo ra những FTA riêng cho các nước châu Á, mà tìm cách ký kết các giao ước để thủ lợi từ các FTA đó. Về mặt an ninh, quyền lợi của Hoa Kỳ gắn với sự ổn định, chống khủng bố, và giải trừ vũ khí ở Đông Á lớn đến mức Hoa Kỳ đã tìm một ghế tại bàn hội nghị khi các quốc gia Á Châu gặp gỡ để bàn bạc và thường chủ động dẫn dắt các nỗ lực để giải quyết các vấn đề còn tranh cãi. Thượng Đỉnh Đông Á loại trừ Hoa Kỳ, song Washington đã triệu tập một Diễn đàn Khu vực Đông Bắc Á, bao gồm Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, và
Nam Hàn.

Tâm điểm của các quan ngại của Hoa Kỳ đối với kiến trúc khu vực đang phát triển ở Đông Á là ảnh hưởng đang tăng của Trung Quốc. Nguy cơ đang tồn tại là, nếu Trung Quốc khống chế được các thiết chế khu vực ở Đông Á, nó có thể lái chúng theo hướng có hại cho quyền lợi của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, một số quốc gia châu Á đang cảnh giác trước các ảnh hưởng quá mức của Trung Quốc và đang che chắn và khéo léo vận động chống lại nguy cơ bị Trung Quốc khống chế. Các quốc gia khác có lẽ sẽ bác bỏ một chính sách kềm chế Trung Quốc một cách lộ liễu của Hoa Kỳ.

Câu hỏi cuối cùng để cân nhắc chính sách về các phối trí mậu dịch và an ninh ở Đông Á là kiến trúc đó sẽ có dạng nào. Thế giới kỹ nghệ hóa dường như đang tiến hóa thành ba khối riêng biệt, nhưng một cục diện phối trí an ninh và mậu dịch xuyên Thái Bình Dương là hoàn toàn khả thi. Bản tường trình này sẽ được cập nhật định kỳ.

Dick K. Nanto là Chuyên viên Mậu dịch và Kỹ nghệ, Phân ban Mậu dịch, Quốc phòng, và Đối ngoại.

toan van tieng viet tai dia chi: http://ifile.it/nrxawpv

toan van tieng anh tai dia chi: http://fpc.state.gov/documents/organization/75280.pdf

Contents


Reshuffling the Asian Deck..........................................5
Why Join Together?................................................6
Regional Trade Agreements..........................................8
Regional Economic and Financial Arrangements ........................10
Existing FTAs and Those Being Negotiated ........................10
Asia Pacific Economic Cooperation ..............................16
Proposed Asia Free Trade Area ..................................17
Cooperative Financial Arrangements ..............................18
Regional Political and Security Arrangements ..........................18
ASEAN and the ASEAN Security Community......................19
ASEAN + 3 (China, Japan, and South Korea).......................20
ASEAN Regional Forum.......................................20
East Asia Summit .............................................22
Shanghai Cooperation Organization ..............................23
The Six-Party Talks ...........................................24
The Proposed Northeast Asia Regional Forum ......................24
Track Two Dialogues..........................................25
The Pacific Command .........................................25
Policy Issues.....................................................26
U.S. Interests ................................................26
Visions for East Asia ..........................................28
Asian Regionalism and U.S. Interests .............................31
Economic Interests........................................31
Security Interests .........................................32
Policy Options ...................................................35
Disengage from Regional Institution Building in Asia ................35
Continue Current Engagement...................................36
Increase Regional Efforts.......................................38

List of Figures


Figure 1. Types of Trading Arrangements (by Intensity) ...................9
Figure 2. East Asian Regional Arrangements — Existing and Proposed ......20


List of Tables


Table 1. Regional Trade Agreements, Negotiations, and Discussions by
Selected East Asian and Other Nations ............................11


TRẬT TỰ THẾ GIỚI SAU CHIẾNH TRANH LẠNH


Sách do Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia - Viện Thông tin Khoa học Xã hội ấn hành năm 2001 bao gồm 2 tập

Thực hiện bởi nhóm tác giả
Lại Văn Toàn (chủ biên)
Phạm Nguyên Long
Phạm Thái Việt



MỤC LỤC



TẬP I



Phần I

TRẬT TỰ THẾ GIỚI SAU CHIẾNH TRANH LẠNH


1. Thế giới sau chiến tranh lạnh. Phân tích và dự báo về trật tự thế giới ...... Lại Văn Toàn

2. Trât tự thế giới: Cũ và mới ...................................................................... Falk Richard

3. Sự đụng độ giữa các nền văn minh .................................................. Huntington Samuel

4. Cơ cấu địa chính trị thế kỷ XXI ...............................................................Utkin Anatoli

5. Thời đại sau chiến tranh lạnh chấm hết rồi chăng? .......................................... Li QingJin

6. Mấy vấn đề về sự phát triển đa cực hoá trên thế giới .................................. Chen De Zhao

7. Từ thuyến ổn định bá quyền đến thuyết ổn định đơn cực:
Sự trở lại chủ nghĩa hiện thực mới sau chiến tranh lạnh ............. Wang Yiwei & Tang Xiaosong

8. Những triển vọng của thế giới đơn cực trong thế kỷ XXI .............................Utkin Anatoli

9. Siêu cường đơn độc ............................................................................Huntington Samuel

10.Thế giới sẽ ra sao? Các kịch bản cho thế kỷ XXI ........................................ Hammond .A

11. Thế giới trong buổi bình minh của thế kỷ XXI
( Dự báo tình hình thế giới đến năm 2015) ................................................Phạm Thái Việt


TẬP II

Phần II

HỆ THỐNG QUAN HỆ QUỐC TẾ



12. Hệ thống quan hệ quốc tế đương đại ........ .........................................Phạm Thái Việt

13. Toàn cầu hoá các quan hệ quốc tế:
Xu thế khách quan hay là chiến lược của hoa kỳ ....................................... G.X.Khozin

14. Năm thực tế sẽ định hình nền chính trị của thế kỷ XXI
.............................................................................William.A.Gaston and Elaine C.Kmarck

15. Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng hoà ....................................Robert B. Zoellick

16. Tại sao người ta không yêu thích chúng ta? ................................ Stanley Hofmann

17. Nước Nga trong thế giới hiện đại:
Quan điểm của nhà chính trị và khoa học Mỹ .............................................. Mirskij.G

18. Nước Nga trước ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ ba ...................................V.I.Putin

19. Chiến lược và sách lược đối ngoại xuyên thế kỷ của Trung Quốc ................Gong Li

20. Nhật bản tìm kiếm vị thế cường quốc trong thế kỷ XXI ...........................Sun Cheng

21. Dự báo sự phát triển của Liên hiệp châu Âu trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI
......................................................................................................................Bùi Huy Khoái

Phần III

VỊ THẾ CỦA ĐÔNG Á TRONG TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI

22. Đông Á bước vào thế kỷ XXI ..................................................... Lại Văn Toàn

23. ASEAN trong thiên niên kỷ mới ......................................... Phạm Nguyên Long