Thứ Năm, 27 tháng 3, 2008

Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?



Các Bài giảng Wicksell

Năm 1958 Hội Bài giảng Wicksell [The Wicksell Lecture Society], với sự hợp tác của Viện Khoa học Xã hội thuộc Đại học Stockholm [the Social Science Institute of Stockhol University], Trường Kinh tế học Stockholm [the Stockholm School of Economics], và Hội Kinh tế Thuỵ Điển [Swedish Economic Association], đã khai trương loạt các bài giảng để tôn vinh và tưởng nhớ Knut Wicksell (1851-1926). Đến 1975 các bài giảng được trình bày hàng năm. Sau một thời kì tạm dừng loạt bài giảng lại được Hội Kinh tế Thuỵ Điển khai trương lại năm 1979. Bắt đầu với các bài giảng 1982, một tập các bài giảng được trình bày hai năm một.

Joseph E. Stiglitz

Lời giới thiệu của người dịch

Quyển sách này là quyển thứ 6 của tủ sách SOS2 do chúng tôi chọn và dịch ra tiếng Việt. Nó được Joseph Stiglitz viết hơn mười năm trước, vào những năm đầu của thời kì chuyển đổi, và được xuất bản đầu tiên năm 1994. Ông là người có công chính trong phát triển kinh tế học thông tin, và vì những cống hiến đó ông đã được giải Nobel kinh tế năm 2001. Trong cuốn sách này ông dùng những kết quả nghiên cứu của mình và của các cộng sự về kinh tế học thông tin để làm rõ hơn những vấn đề tranh luận lâu đời về các mô hình kinh tế, các hệ thống kinh tế, và trên cơ sở đó đưa ra những gợi ý chính sách cho các nền kinh tế chuyển đổi hậu xã hội chủ nghĩa.

Ông phê phán các lí thuyết kinh tế tân cổ điển, mô hình xã hội chủ nghĩa thị trường và mô hình thị trường cạnh tranh truyền thống dựa trên lí thuyết đó, làm rõ hơn những điểm mạnh điểm yếu của các hệ thống kinh tế. Ông gợi ý những chính sách kinh tế cho các nền kinh tế chuyển đổi.

Phê phán và đánh giá của ông khá cân bằng và khách quan trên cơ sở những kết quả mới nhất trong nghiên cứu kinh tế. Độc giả của tủ sách SOS2 sẽ thấy cuốn sách này rất lí thú, nhất là sau khi đã đọc các cuốn sách khác của tủ sách, đặc biệt là hai cuốn đầu của Kornai.

Joseph Stiglitz đã từng là cố vấn kinh tế của tổng thống Clinton, là Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới. Ông đã thường xuyên thảo luận các vấn đề kinh tế chuyển đổi với các học giả và quan chức Trung Quốc và các nước Đông Âu từ đầu những năm 1980, và cho các nhà hoạch định chính sách những lời khuyên bổ ích. Việt Nam đã bắt đầu công cuộc chuyển đổi hơn mười lăm năm nay. Từ giữa các năm 1990 Ông đã vài lần đến Việt Nam; Chính phủ Việt Nam dường như đánh giá cao những lời khuyên của Ông.

Với các độc giả Việt Nam cuốn sách vẫn có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nó không chỉ mang đến cho chúng ta những suy ngẫm sâu xa liên quan đến nội dung các cuộc tranh luận lâu đời về các mô hình kinh tế, những vấn đề học thuật uyên thâm, mà còn mang tính thời sự nóng hổi cho công cuộc đổi mới đất nước. Trước hết nó, cũng như cuốn “Hệ thống Xã hội chủ nghĩa” của Kornai, giúp chúng ta hiểu rõ hơn lịch sử kinh tế của mình trong hơn nửa thế kỉ qua, hiểu rõ hơn những vấn đề hiện tại, và hi vọng góp phần quan trọng trong định ra các bước đi thích hợp trước mắt và lâu dài.

Cuốn sách không chỉ bổ ích cho các học giả, các nhà hoạch định chính sách, mà cũng rất bổ ích cho các nhà doanh nghiệp, các nhà báo, sinh viên và những người quan tâm khác.

Tuy bàn luận về những vấn đề lí thuyết sâu xa, song cuốn sách không dùng đến những kiến thức toán học cao siêu, nên có thể dễ đọc hơn với quảng đại bạn đọc. Tuy vậy, đây là cuốn sách chuyên khảo, cần phải có những hiểu biết nhất định mới có thể hiểu được. Có một vài thuật ngữ toán (kinh tế) có thể lạ tai đối với một số bạn đọc (thí dụ như tính lồi [convexity], tính không lồi [nonconvexity], tuyến tính [linearity], phi tuyến [nonlinearity], v.v) bạn đọc nên xem lại các khái niệm toán sơ cấp hay cao cấp liên quan. Có một vài thuật ngữ kinh tế, như rent [tiền thuê, tô] đôi khi được dịch nhất quán là “đặc lợi” cho phù hợp với rents seeking [tìm kiếm đặc lợi]; hoặc polyarchy [(đa?) thứ bậc] lại được dùng nhất quán là phi thứ bậc để đối lập với hiearchy [hệ thống thứ bậc], có thể gây khó chịu cho một số độc giả. Tất cả những điểm như vậy đều có đánh dấu sao (*) ở các chỗ thích hợp. Mọi chú thích đánh số đều là của tác giả, các chú thích đánh dấu sao (*) là của người dịch. Để tránh những khó khăn trên, và giúp việc nghiên cứu được thuận tiện phần chỉ mục [index] tỉ mỉ về các khái niệm, dẫn chiếu chúng tôi kèm cả thuật ngữ tiếng Anh để tiện dùng.

Do hiểu biết có hạn của người dịch, bản dịch chắc còn nhiều sai sót, mong bạn đọc lượng thứ và chỉ bảo. Mọi góp ý xin gửi về Tạp chí Tin Học và Đời Sống 25/B17 Hoàng Ngọc Phách [Nam Thành Công] Hà Nội, thds@hn.vnn.vn, hoặc nqa@netnam.vn.

Hà nội 11-2003
Nguyễn Quang A

ĐỌC TOÀN VĂN

Tham khảo thêm

Mô hình Kornai về các hệ thống kinh tế



Bài học chuyển đổi ở Đông Âu

Phân chia trước năm 1989 giữa "Tây" (màu xám) và "Khối Đông" (màu cam) chồng lên biên giới hiện thời: Nga (màu cam xẫm), các quốc gia khác xưa kia thuộc Liên Xô (màu cam trung bình), các thành viên của Khối Warszawa (màu cam lợt), và những chính thể cựu cộng sản khác không liên kết với Moskva (màu cam lợt nhất).
Phân chia trước năm 1989 giữa "Tây" (màu xám) và "Khối Đông" (màu cam) chồng lên biên giới hiện thời: Nga (màu cam xẫm), các quốc gia khác xưa kia thuộc Liên Xô (màu cam trung bình), các thành viên của Khối Warszawa (màu cam lợt), và những chính thể cựu cộng sản khác không liên kết với Moskva (màu cam lợt nhất).

Lời giới thiệu

Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ mười sáu [1] của tủ sách SOS2, cuốn B� i học Chuyển đổi ở Đông Âu gồm 6 tiểu luận của Kornai János. Đây là cuốn sách thứ năm của Kornai trong tủ sách này và là cuốn thứ sáu của Kornai bằng tiếng Việt. Đây là các bài viết của Kornai đánh giá về chuyển đổi hậu xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, nêu những b� i học có thể rút ra trong 15 năm phát triển vừa qua của khu vực này. Nhiều bài học của khu vực đó cũng rất bổ ích cho nền kinh tế chuyển đổi của chúng ta.

Mở đầu là bài trình bày của ông tại Hà Nội khi ông thăm Việt Nam lần đầu tiên tháng 3-2001. Ông nêu ra 10 bài học ở đây.

Tiếp đến là bà i viết của ông giới thiệu những kết quả của dự án nghiên cứu quốc tế về “Tính trung thực và niềm tin” được tiến h� nh tại Collegium Budapest đầu các năm 2000 và tuyển tập những nghiên cứu nà y được xuất bản năm 2004.

Bài thứ ba là một bài báo phân tích về sự thay đổi hệ thống từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa tư bản có nghĩa là gì và không có nghĩa là gì, được công bố năm 2000, dựa trên một cuốn sách nhỏ của ông in năm 1998 tại Anh.

Bà i thứ tư là bà i phát biểu của ông với tư cách Chủ tịch Hội Kinh tế Thế giới, đọc tại Đại hội năm 2005 ở Maroc.

Bà i thứ năm bàn về những cải cách điều chỉnh do chính phủ Hungary đưa ra tháng 6-2006, bàn về điều chỉnh, cân bằng và tăng trưởng. Tuy nói về tình hình Hungary nhưng chứa nhiều bài học phổ quát.

Bài cuối cùng là bài viết năm 1996 của ông đánh giá những biện pháp điều chỉnh lớn của Hungary đưa ra hơn một năm trước đó.

Lẽ ra có thể đưa cả bài đánh giá cuốn Con đường tới nền kinh tế tự do sau 10 năm nhìn lại vào tuyển tập này, song do đã được in như phần cuối của cuốn Con đường trong ấn bản tiếng Việt nên chúng tôi không đưa vào đây.

Có thể nói những bài học chuyển đổi của Đông Âu cũng có thể rất bổ ích với chúng ta. Chúng ta có thể học được những bà i học thành công và cả các bài học thất bại để tránh. Bất chấp sự khác biệt về lịch sử, về địa lí và văn hóa, nhưng do cùng có quá khứ kinh tế giống nhau, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nên các bài học là rất đáng suy nghĩ đối với chúng ta.

Tôi nghĩ cuốn sách rất bổ ích cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh tế học, các nh� nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, các sinh viên và tất cả những ai quan tâm đến chuyển đổi hậu xã hội chủ nghĩa.

Người dịch đã cố hết sức để làm cho bản dịch được chính xác và dễ đọc, song do hiểu biết có hạn nên khó thể tránh khỏi sai sót.

Mọi chú thích cuối sách của tác giả được đánh bằng số. Các chú thích cuối trang được tác giả đánh dấu bằng số Ảrập. Tất cả các chú thích đánh sao (*) ở cuối trang là của người dịch. Bản dịch chắc còn nhiều thiếu sót mong bạn đọc thông cảm, lượng thứ, và chỉ bảo; xin liên hệ theo địa chỉ Tạp chí Tin học và Đời sống, 66 Kim Mã Thượng Hà Nội, hoặc qua điện thư thds@hn.vnn.vn hay nqa@netnam.vn

08-2006
Nguyễn Quang A

Toàn văn

Chủ nghĩa cộng sản




Lời nói đầu


Đây là cuốn sách nhập môn và đồng thời cũng là lời ai điếu cho chủ nghĩa cộng sản. Vì rõ ràng rằng nếu một lúc nào đó trong tương lai, việc tìm kiếm một sự bình đẳng hoàn toàn, một tư tưởng từ thời cổ đại đã thúc đẩy các chiến sĩ đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản không tưởng, có được tái tục thì cơ sở của những sự tìm kiếm như thế sẽ không phải là chủ nghĩa Marx-Lenin nữa. Chủ nghĩa này đã không còn một chút hấp dẫn nào, ngay cả những người cộng sản thời hậu Xôviết ở Nga cũng như tại nhiều nước khác, trong các chiến dịch tranh cử, đã phải thay nó bằng cương lĩnh dân chủ xã hội pha trộn thêm màu sắc dân tộc chủ nghĩa. Vì thế hôm nay chúng ta đã có đủ điều kiện lập bảng tổng kết cái phong trào đã từng giữ thế thượng phong trong suốt thế kỉ XX và xác định xem liệu sự sụp đổ của nó có phải là hậu quả của những sai lầm của một số người nào đó hay đây là kết quả của những khiếm khuyết trong chính bản chất của nó.

Từ chủ nghĩa cộng sản xuất hiện ở Paris vào năm 1840, liên quan đến ba khái niệm khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với nhau: lí tưởng, cương lĩnh hành động và chế độ nhận lãnh trách nhiệm biến lí tưởng thành hiện thực.

Lí tưởng bình đẳng tuyệt đối (thí dụ trong một số trước tác của Platon) đòi hỏi cá nhân phải tan biến vào tập thể. Vì bất bình đẳng về mặt xã hội và kinh tế có nguyên nhân chủ yếu từ sự bất bình đẳng về tài sản, muốn bình đẳng thì từng người phải từ bỏ “của tôi” và “của anh”, nói cách khác từ bỏ tư hữu. Lí tưởng này có nguồn gốc lịch sử lâu đời và thỉnh thoảng lại tái xuất hiện trong lịch sử tư tưởng phương Tây, kể từ thế kỉ thứ VII trước công nguyên cho đến tận ngày nay.

Cương lĩnh cộng sản xuất hiện vào khoảng giữa thế kỉ XIX và gắn bó trước hết với tên tuổi của Karl Marx và Friedrich Engels. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848, Marx và Engels viết: “những người cộng sản có thể tuyên bố học thuyết của mình bằng một câu thôi: bãi bỏ tư hữu”. Engels khẳng định rằng bạn ông đã đưa ra một lí thuyết khoa học chứng minh tính tất yếu của sự cáo chung của những xã hội dựa trên khác biệt về mặt giai cấp.

Mặc dù trong lịch sử loài người lí tưởng cộng sản cũng đã đôi ba lần được đưa ra thực hiện, nhưng sử dụng toàn bộ sức mạnh của nhà nước cho một thí nghiệm như thế chỉ mới được thực hiện lần đầu tiên ở nước Nga từ năm 1917 đến năm 1991. Vladimir Lenin, người sáng lập chế độ đó, cho rằng đấy là một xã hội bình đẳng, không còn tư hữu, sinh ra nhờ chuyên chính vô sản, một nền chuyên chính gánh trên vai trách nhiệm bãi bỏ tư hữu và đặt nền móng cho con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản.

Chúng ta sẽ theo dõi chủ nghĩa cộng sản theo đúng trình tự như thế vì như thế là hợp lôgích và vì chủ nghĩa này cũng xuất hiện theo trình tự: đầu tiên là lí tưởng, sau đó là kế hoạch thực hiện và cuối cùng là biến lí thuyết thành hiện thực. Nhưng chúng ta sẽ quan tâm chủ yếu đến việc thực hiện bởi vì tự bản thân lí tưởng và cương lĩnh là những thứ vô hại, trong khi việc thực hiện chúng, nếu lại sử dụng toàn bộ sức mạnh của nhà nước, có thể dẫn tới những hậu quả không thể lường được.


Bản tiếng việt
Bản tiếng Nga