Thứ Năm, 20 tháng 3, 2008

Toàn cầu hoá: Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hoá


Mặc dù đã trở thành một vấn đề thời sự, có ảnh hưởng sâu sắc đến vận mệnh của mỗi cá nhân, quốc gia, dân tộc,… thu hút sự quan tâm chú ý của giới nghiên cứu, giới chính trị cũng như của đông đảo các tầng lớp nhân dân trên thế giới, nhưng toàn cầu hoá vẫn là một khái niệm còn để ngỏ. Ở bất cứ một lĩnh vực nào của đời sống hiện thực, người ta cũng cảm nhận được sự hiện diện, thấm sâu của toàn cầu hoá vào tất cả các yếu tố cấu thành nên đời sống toàn cầu.

Đã xuất hiện nhu cầu phân loại và tổng kết các nghiên cứu về toàn cầu hoá nhằm định hình những nội dung cơ bản mà khái niệm này bao chứa, đồng thời nhìn nhận bản chất, cơ chế và hiệu ứng của toàn cầu hoá từ giác độ hiện thực. Góp phần đáp ứng cả hai nhu cầu này, cuốn sách “Toàn cầu hoá: những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hoá” của TS. Phạm Thái Việt tiến hành phân loại và giới thiệu những quan điểm tiêu biểu về toàn cầu hoá; phân tích những đảo lộn đang diễn ra trong thực tiễn đời sống chính trị, xã hội, văn hoá của các cộng đồng truyền thống.

Phần một: Khái niệm và cách tiếp cận. Chương I: Khái niệm toàn cầu hoá tìm hiểu về sự ra đời và tính phổ dụng của thuật ngữ “toàn cầu hoá”, định nghĩa toàn cầu hoá với một số phương án tiêu biểu và phân tích ngắn gọn về các đặc trưng: công nghệ mới, sự tập trung thông tin cho phép thực hiện liên lạc trực tiếp, sự gia tăng xu hướng chuẩn hoá các sản phẩm kinh tế và xã hội, gia tăng hội nhập xuyên quốc gia, tính dễ làm tổn thương lẫn nhau do sự tuỳ thuộc vào nhau tăng lên của toàn cầu hoá. Chương II: Các cách tiếp cận chính đối với toàn cầu hoá tập trung xem xét năm phương pháp tiếp cận mà các nghiên cứu về toàn cầu hoá sử dụng: cách tiếp cận hệ thống - thế giới; văn hoá; xã hội toàn cầu; chủ nghĩa tư bản toàn cầu và cách tiếp cận logic và lịch sử.

Phần hai: Những biến đổi trong đời sống chính trị quốc tế. Chương III: Sự biến dạng của hệ thống quan hệ quốc tế trình bày vắn tắt những khiếm khuyết cũng như những lợi ích thiết thực của lý thuyết hệ thống do chủ nghĩa hiện thực mới mang lại cho hoạt động thực tiễn quốc tế cũng như cho hoạt động dự báo chiến lược của mỗi quốc gia; đồng thời phân tích những hiệu ứng trái ngược của tiến trình toàn cầu hoá đối với hệ thống quan hệ quốc tế. Chương IV: Sự nổi lên của các tổ chức phi chính phủ (NGOs) đề cập đến nội hàm và ngoại diên khái niệm NGOs, các phẩm chất “trung lập”, phi bạo lực và không vụ lợi của NGOs; tiến hành phân loại NGOs theo các tiêu chí lãnh thổ, kiểu tổ chức và phương thức hoạt động; xem xét những ảnh hưởng trực tiếp (cấp độ quốc gia và địa phương) và gián tiếp (cấp độ toàn cầu) của NGOs đối với hoạt động hoạch định chính sách của các chính phủ; và NGOs ở Việt Nam. Chương V: Áp lực đối với nhà nước dân tộc (nation-state) nghiên cứu những phức tạp xung quanh các thuật ngữ “dân tộc” và “nhà nước”, tìm hiểu nhà nước dân tộc trong lịch sử và xem xét tác động của toàn cầu hoá đến nhà nước dân tộc theo bốn chiều hướng chính: làm biến dạng lãnh thổ, biến dạng xã hội công dân hay cơ cấu dân tộc trong lòng nhà nước, biến dạng cơ cấu quyền lực trung ương và biến dạng chủ quyền.

Phần ba: Những biến đổi trong đời sống văn hoá. Chương VI: Sự gia tăng vai trò của văn hoá trong thời đại toàn cầu hoá được lý giải theo bốn nguyên nhân căn bản. Một là, trong tiến trình lịch sử, các mối liên kết cộng đồng trên cơ sở của văn hoá thường tỏ ra bền vững và chịu được thử thách của thời gian hơn so với những mô thức liên kết khác, chẳng hạn như thị trường hay nhà nước. Hai là nhu cầu tự khẳng định và bảo tồn kết cấu của dân tộc (và do đó là của nhà nước) trước áp lực của toàn cầu hoá đang hối thúc các chính phủ phải khẳng định tính đồng nhất dựa trên lịch sử, truyền thống, kể cả huyền thoại. Ba là nhu cầu phản tư của các cá thể trước tính bất định và xu thế nhất dạng hoá, phát sinh từ toàn cầu hoá. Bốn là, trong điều kiện toàn cầu hoá, văn hoá đang ngày càng có tiếng nói quyết định đối với kinh tế, thể hiện rõ nét trên hai phương diện: tăng trưởng kinh tế và kinh tế tri thức. Chương VII: Một số nét mới của tôn giáo và nghiên cứu tôn giáo hiện nay đề cập đến các hình thái “bù đắp” mới của tôn giáo trong đời sống hiện đại cũng như cách tiếp cận lý tính, cách tiếp cận chỉnh thể, khuynh hướng cá nhân hoá (thế tục hoá) và xã hội hoá (chấn hưng) trong hoạt động nghiên cứu tôn giáo đương đại. Chương VIII: Giao lưu văn hoá trong điều kiện toàn cầu hoá nhận định về bản chất của giao lưu văn hoá và nêu bật những cái mới trong hình thức giao lưu toàn cầu hoá hiện nay trên ba phương diện: thứ nhất, “sự lên ngôi” của giao lưu liên văn hoá, thứ hai, sự xuất hiện những phẩm chất mới ở những phương thức giao lưu cũ, thứ ba, sự xuất hiện những phương thức giao lưu mà lịch sử trước đó chưa từng biết đến. Chương IX: Bản sắc văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá nhìn nhận bản sắc là những yếu tố văn hoá đặc trưng cho từng cấp độ chủ thể văn hoá được xét đến. Bản sắc giúp khu biệt cộng đồng văn hoá này với cộng đồng văn hoá khác. Từ đó xem xét tác động của toàn cầu hoá đối với bản sắc văn hoá theo hai khuynh hướng chủ đạo nhưng trái ngược nhau (toàn cầu hoá đang xác lập nên hệ giá trị chung đại diện cho con người - nhân loại, xét trong quan hệ với giới tự nhiên, và trong quan hệ ứng xử giữa các dân tộc trên thế giới; đồng thời toàn cầu hoá lại đánh thức sự phản tư văn hoá ở tất cả các dân tộc trên thế giới, kích thích nhu cầu khẳng định bản sắc trước nguy cơ bị hoà tan vào môi trường văn hoá bên ngoài) và những hệ quả khả dĩ của tương tác văn hoá trong điều kiện toàn cầu hoá.

Phần bốn: Quản lý toàn cầu hoá. Chương X: Quản lý toàn cầu hoá - nhu cầu và phương án đi tìm lời giải đáp cho những câu hỏi: Có cần quản lý toàn cầu hoá? Ai là người có đủ năng lực để đứng ra quản lý toàn cầu hoá? với các phương án tiêu biểu của chủ nghĩa tự do cổ điển, chủ nghĩa tự do mới và chủ nghĩa đa phương. Chương XI: Hành động thực tế chỉ rõ những việc cần làm ngay để đối mặt với những thử thách mà toàn cầu hoá đặt ra cũng như nắm bắt những cơ hội mà toàn cầu hoá mang lại, đó là: hợp tác vì lợi ích đa phương, thực thi chiến lược “phát triển bền vững”.

Sách dày 415 trang, khổ 14,5x20,5cm (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2006) của TS. Phạm Thái Việt, Viện Thông tin KHXH, với những nghiên cứu chi tiết về toàn cầu hoá trong khuôn khổ chính trị quốc tế và văn hoá, là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu, giảng dạy và bạn đọc quan tâm hiểu rộng hiểu sâu về toàn cầu hoá theo những chiều cạnh mới mẻ.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

Anh Duy

Không có nhận xét nào: