Thứ Tư, 13 tháng 1, 2010

THƯ MỤC BÁO + TẠP CHÍ

Tập san Văn Sử Địa và Đại học Sư phạm


Mời các bạn download tập san Sử Địa ở đây
Tap san Su dia P1: http://www.megaupload.com/?d=5UHUW75Y
Tap san Su dia P2: http://www.megaupload.com/?d=5VNLIHPK
Tap san Su dia P3: http://www.megaupload.com/?d=UKG946VY
Tap san Su dia P4: http://www.megaupload.com/?d=BNXYOALU
Tap san Su dia P5: http://www.megaupload.com/?d=P5A3RK5Y
Tap san Su dia P6: http://www.megaupload.com/?d=D0G0A76R

or


Hiện cũng có trọn bộ Tập san Sử Địa tại đây :
http://timsach.com.vn/docsachxua.php?sxcid=14

Link download DVD tạp chí Thanh Nghị 1941-1945


Bộ này có 12 phần, các bác down về rồi extract

Part 1
Part 2
Part 3
Part 4
Part 5
Part 6
Part 7
Part 8
Part 9
Part 10
Part 11
Part 12






Nam Phong Tạp Chí Số 01

NÔNG CỔ MÍN ĐÀM

http://pilot.vn/upload/files//2009/06/20/NCMD.jpg

download tạp chí tại đây
Nông cổ mín đàm số 21-30
Nông cổ mín đàm số 31-40
Nông cổ mín đàm số 41-44


Đĩa Kỹ thuật của người An Nam của Henri Oger



Ky thuat cua nguoi An Nam P1: http://www.megaupload.com/?d=H9WSRLCH
Ky thuat cua nguoi An Nam P2: http://www.megaupload.com/?d=8CDIV65G
Ky thuat cua nguoi An Nam P3: http://www.megaupload.com/?d=G5QDIZJB
Ky thuat cua nguoi An Nam P4: http://www.megaupload.com/?d=3MXRZ1KF
Ky thuat cua nguoi An Nam P5: http://www.megaupload.com/?d=JZTRZ199
Ky thuat cua nguoi An Nam P6: http://www.megaupload.com/?d=HXR6427O
Ky thuat cua nguoi An Nam P7: http://www.megaupload.com/?d=2RVKC1CG

Người Việt kỳ diệu - A.Pazzi (Bản số hóa)
http://du-lich.chudu24.com/f/d/090516/1-5.jpg


Mời các bác đón down.
Người Việt kỳ diệu - A.Pazzi





Pass : sachxua.net

LỜI GIỚI THIỆU SƯU TẬP TẠP CHÍ “TRI TÂN”

do Viện Viễn Đông bác cổ Pháp thực hiện, 2009

Lại Nguyên Ân

Trong số những cơ quan báo chí có vai trò quan trọng đối với sinh hoạt văn hoá và học thuật Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX, bên cạnh những tờ như Đông Dương tạp chí (1913-19), Nam phong (1917-34), Thanh nghị (1941-45), người ta không thể không kể tới tạp chí Tri tân (1941-46).

Tri tân xuất bản số đầu tiên vào ngày 3/6/1941 và ngay từ đầu đã tự xác định là tạp chí văn hoá ra hằng tuần (revue culturelle hebdomadaire); với 24 trang khổ 20x25 cm mỗi số, sau 5 năm liên tục, Tri tân đã ra được 214 số với trên 5.000 trang (gồm 212 số “Tri tân loại cũ” từ số 1 đến số 212, ngày 22/11/1945, và 2 số “Tri tân loại mới”, đánh số lại từ số 1, ngày 6/6/1946, đến số 2, ngày 16/6/1946, trên thực tế là số cuối cùng).

Toà soạn lúc đầu đặt tại số nhà 349 Phố Huế, Hà Nội, từ 8/8/1941 chuyển tới số nhà 195 phố Hàng Bông, từ Tri tân số 100, ngày 24/6/1943 chuyển tới số nhà 95-97 phố Chanceaulme (nay là Tô Hiến Thành).

Chủ nhiệm (directeur) Tri tân là Nguyễn Tường Phượng; quản lý (administrateur gérant) là Dương Tụ Quán; từ đầu tháng 7/1943, Nguyễn Tường Phượng đảm nhiệm cả hai vai trò nói trên (directeur gérant).

Cái tên Tri tân đặt cho tạp chí này là rút từ mệnh đề của thánh hiền Nho giáo “ôn cố tri tân” (溫 故 知 新 : ôn cũ biết mới). (1)

Lời phi lộ đăng ở đầu số 1 nói rõ tôn chỉ của tạp chí này:

“Ôn cũ! Biết mới!” Nhằm cái đích ấy, TRI TÂN đi riêng con đường văn hoá. Với cặp kính khảo cứu, TRI TÂN lần dở từng trang lịch sử; bằng con mắt nhận chân và lạc quan, TRI TÂN ngó rộng chân trời tri thức. Ghé vai gánh gạch xe vôi, TRI TÂN đứng vào hàng ngũ công binh, xây dựng lâu đài văn hoá Nam Việt.”

Tuy cái tên “tri tân” hướng về sự “biết mới” nhưng hoạt động khảo cứu trên tờ tuần san này lại nghiêng nhiều hơn về sự “ôn cố” tức là ôn lại cái cũ. Xu hướng tìm về di sản dân tộc bộc lộ từ đầu và được duy trì suốt thời gian hoạt động của tạp chí này.

Ở thời hoạt động của Tri tân, báo chí chữ Việt nói chung chưa được chuyên môn hoá sâu ở mức như sau này. Bản thân định hướng khảo sát văn hoá ở Tri tân đã bao hàm một sự tự giới hạn về thể tài báo chí theo hướng chuyên môn hoá ở mức hẹp hơn, xác định hơn so với mặt bằng chung của báo chí đương thời. Tuy thế, Tri tân vẫn chưa ra khỏi khuôn khổ chung của loại tuần báo tổng hợp đương thời, mặc dù phương diện văn hoá ở đây luôn luôn được nhấn mạnh.

Trong thể tài tuần san, Tri tân hầu như dành toàn bộ tờ tạp chí cho các nội dung văn hoá với hai loại chính: 1/ đăng tải bài vở nghiên cứu, biên khảo, giới thiệu về các vấn đề văn hoá, và 2/ đăng tải các sáng tác văn thơ.

Phần đăng tải về khảo cứu văn hoá là phần hàm chứa nhiều giá trị hơn cả. Tri tân có bài vở về hầu hết các lĩnh vực sử học, dân tộc học, triết học, ngôn ngữ học, nghiên cứu và phê bình văn học, v.v… Bên cạnh các nội dung thuộc các khoa học xã hội và nhân văn nói trên, tạp chí còn đăng một số bài về khoa học tự nhiên, công nghệ.

Chính ở mảng khảo cứu văn hoá, Tri tân đã trở thành nơi quy tụ nhiều học giả tài năng và tâm huyết với di sản văn hoá Việt Nam.

Tiêu biểu về mặt này là Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố (1889-1947), khi đó làm việc tại Học viện Viễn Đông bác cổ Pháp (đặt tại Hà Nội) đồng thời là nhà hoạt động xã hội trong các cương vị Hội trưởng hội Trí tri, Hội trưởng Hội Truyền bá quốc ngữ, đã có mặt thường xuyên trên hầu hết các số Tri tân với rất nhiều loại bài viết, nghiên cứu về lịch sử trung đại Việt Nam (mà tiêu biểu là những chuyên khảo Đại Nam dật sử, Những ông nghè triều Lê, được Tri tân đăng dài kỳ, và nhiều bài khảo cứu khác), về văn học trung đại Việt Nam (đặc biệt là chuyên khảoTài liệu để đính chính những bài văn cổ), và về nhiều vấn đề văn hoá khác.

Bên cạnh Nguyễn Văn Tố là một loạt nhà nghiên cứu thuộc thế hệ thứ hai (tính từ đầu thế kỷ XX), xuất thân tân học (từ nền học Pháp-Việt), quan tâm đến lịch sử văn hoá quá khứ của nước nhà. Họ gặp nhau trên các trang Tri tân, tạo thành hạt nhân và cơ sở cho xu hướng tìm về truyền thống với tinh thần phục hưng văn hoá dân tộc trong sự giao tiếp với văn hoá và học thuật thế giới, − một xu hướng đang mạnh dần lên trong đời sống văn hoá ở Việt Nam những năm 1940. Đó là những cây bút như Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1902-77), Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng (1899-1974), Chu Thiên Hoàng Minh Giám (1913-91), Trúc Khê Ngô Văn Triện (1901-47), Nhật Nham Trịnh Như Tấu (1915-47?), Hoàng Thiếu Sơn (1920-2005), Lê Thọ Xuân (1904-78), Đào Duy Anh (1904-88), Trần Huy Bá (1901-87), Đào Trọng Đủ, v.v… Với các loại bài vở nghiên cứu, biên khảo của các cây bút này, Tri tân đã phác họa lại những trang sử giành độc lập và xây dựng quốc gia tự chủ của người Việt từ thời cổ và trung đại đến cận đại, kiểm định những đóng góp của các nhân vật lịch sử. Tri tân có đóng góp đáng kể trong việc kiểm kê các nguồn thư tịch Hán Nôm liên quan đến sử học, văn học. Các vấn đề về soạn thảo văn học sử Việt Nam được đưa ra bàn luận nghiêm túc trên tạp chí này. Các khía cạnh tư liệu liên quan đến các tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam thời trung đại đã được đề cập một cách cẩn trọng, khách quan. Tri tân, với việc đăng tải mảng khảo cứu văn hoá, chẳng những đã là nơi trưởng thành của một loạt nhà nghiên cứu, mà còn là nơi bồi dưỡng những học giả lớp sau trong số những độc giả của mình.

Bên cạnh mảng khảo cứu văn hoá quá khứ, trên Tri tân cũng có một số trang đáng kể dành cho phê bình văn học, − tức là điểm bình, nhận xét, thảo luận về các sáng tác văn học, các cuốn sách biên khảo mới xuất hiện. Về mặt này, Tri tân đã là nơi trưởng thành của một số tác gia phê bình như Lê Thanh (1913-44), Kiều Thanh Quế (1914-47?), là nơi xuất hiện những bài viết sớm của những tên tuổi mà sau đó sẽ rất nổi tiếng như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, v.v…

Trên Tri tân đã có những bài phê bình nhiều tác phẩm mới ra đời, từ thơ ca (như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Hương cố nhân của Nguyễn Bính, Thi văn tập của Phan Mạnh Danh); kịch bản và sân khấu kịch (như Đồng bệnh của Khái Hưng, Vân Muội của Vũ Hoàng Chương, Kinh KhaÔng ký Cóp của Vy Huyền Đắc, Quán biên thuỳ của Thao Thao, Thế Chiến Quốc của Trần Tử Anh, Bóng giai nhân của Nguyễn Bính và Yến Lan, Ghen của Đoàn Phú Tứ), truyện và ký (như Thiếu quê hương, Vang bóng một thời, Tuỳ bút của Nguyễn Tuân, Nắng thu của Nhất Linh, Mực mài nước mắt của Lan Khai, Kinh cầu tự của Huy Cận, Quê người của Tô Hoài, Chân trời cũ của Hồ Dzếnh, Chồng con của Trần Tiêu, Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp, Nhà nho của Chu Thiên, Sợ sống của Lê Văn Trương, Bảy Hựu của Nguyên Hồng,…) đến nghiên cứu biên khảo (như Việt Nam văn học : I. Văn học đời Lý của Ngô Tất Tố,Thi nhân Việt Nam 1932-1941 của Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi sĩ Trung Nam, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Hàn Mạc Tử của Trần Thanh Mại, Triết học Nietzsche của Nguyễn Đình Thi, Việt Nam thi ca luận của Lương Đức Thiệp, v.v…).

Trên Tri tân cũng có không ít những thảo luận về thơ, ví dụ về luật thơ, về các thể thơ, nhất là những vấn đề được đặt ra từ những cách tân của phong trào thơ mới; trênTri tân thường có những tranh luận về nhiều nội dung văn học sử Việt Nam, phác thảo diện mạo nhiều mảng văn học, trong đó, nói riêng, mảng văn học của các tác gia nữ người Việt đã là nội dung 2 số chuyên đề cuả Tri tân; trên tạp chí cũng có những thảo luận về ranh giới giữa vay mượn, phóng tác và “đạo văn” (nhân so sánh bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư với một bài thơ Nhật Bản, so sánh kịch Ghen của Đoàn Phú Tứ với Jalousie của S. Guitry, v.v…), những ý kiến phê phán không khoan nhượng trước những sai phạm về dịch thuật, về những khuynh hướng được xem là có hại cho công chúng.

Phần đăng sáng tác thơ văn thường không chiếm nhiều trang tạp chí Tri tân. Nét đặc sắc của mảng này ở đây có lẽ là nằm trong sự tương ứng với mảng khảo cứu “ôn cũ”: được chọn đăng Tri tân chủ yếu là các sáng tác về đề tài lịch sử. Trọn vẹn các cuốn tiểu thuyết lịch sử của Chu Thiên (Bà quận Mỹ, Thoát cung vua Mạc, Trúc mai xum họp), các tiểu thuyết và kịch lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng (Đêm hội Long Trì, An Tư, Vũ Như Tô), một loạt kịch thơ hoặc bài thơ dài hoặc ngắn về đề tài lịch sử như Trần Can, Lý Chiêu Hoàng, Phạm Thái của Phan Khắc Khoan, Hát Giang trường lệ, Sóng Bạch Đằng, Tạo hoá và Nhân loại của Minh Tuyền, Ngọc Hân của Tân Phương, Lê Lai đổi áo của Lưu Quang Thuận, v.v… đã được Tri tân đăng tải. Trên tạp chí này cũng thường đăng những thiên du ký, nhất là những du khảo điền dã, kể về những cuộc viếng thăm các di tích lịch sử (Tức Mạc, Kiếp Bạc, chùa Bà Đanh, miếu Hát, Hoa Lư, tháp Bình Sơn, chùa Bối Khê ở miền Bắc, di tích Indrapura Đồng Dương, đền thờ Thiên Ya Na ở miền Trung, gò Ốc Eo, mộ Cử Trị ở miền Nam). Có thể nói Tri tân đã kích thích và giành “đất’” cho sự phát triển mảng sáng tác về đề tài lịch sử ở văn học Việt Nam những năm 1940, một khuynh hướng không đặc trưng ở sự nhạy bén đáp ứng văn hoá đô thị hiện đại hoá đương thời, nhưng đặc trưng ở tinh thần “tìm nguồn”, “về nguồn” trong đề tài văn học.

Đặt trong đời sống văn hoá đương thời, Tri tân đã tồn tại được trên thị trường báo chí từ 1941 đến 1946 tức là đã có được một lớp độc giả nhất định,(2) đã quy tụ được một loạt tác giả ở khắp ba miền đất nước.

Tuy vậy, ngay đương thời, trước một lớp thanh niên tân học thường hướng về sinh hoạt đô thị hiện đại, hướng về văn hoá văn chương Pháp, tạp chí Tri tân không khỏi bị một số người công kích là thủ cựu, gàn dở. Nhiều nhà văn nhà thơ trẻ đương thời giữ khoảng cách “kính nhi viễn chi” với tạp chí này, thậm chí không ít người thường chế diễu Tri tân là tờ báo “của các vị tờ A tờ B”,(3) − đây là theo hồi ức của Tô Hoài, khi ấy là một nhà văn trẻ. Những người cộng sản hoạt động trong bí mật, vào năm 1943 đã quyết định mở rộng phạm vi tranh đấu của mình sang lĩnh vực văn hoá bằng “Đề cương về văn hoá Việt Nam”. Một trong những lãnh tụ của đảng, ông Trường Chinh, khi giải thích ba khẩu hiệu “dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá” như phương châm vận động văn hoá mới do đảng đề xuất, tuy xác nhận nhóm Tri tân “thiên trọng về khẩu hiệu dân tộc hoá”, tức là có chỗ gần gũi với ba nguyên tắc đảng vừa đề ra, nhưng lại phê phán Tri tân là “phong kiến”, “nệ cổ”.(4) Những đại diện của nhóm Văn hoá Cứu quốc (thuộc Mặt trận Việt Minh) là Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi, khi vận dụng đề cương nói trên của đảng để phân tích thực trạng văn hoá Việt Nam đương thời, đã xem nhóm Tri tân là tiêu biểu cho xu hướng “tái sinh văn hoá phong kiến” với tính chất “bảo thủ, thụt lùi” trong văn hoá Việt Nam những năm 1940, thậm chí mỉa mai rằng Tri tân “có công đầu” trong việc quảng cáo cho khẩu hiệu “Việt Nam hoá” trong văn hoá, “đi tìm những gì là ‘Việt Nam’ là ‘Á Đông’ trong tư tưởng, trong văn chương, trong nghệ thuật, để rồi nhắm mắt phụng thờ, dù những giá trị gọi là Việt Nam ấy cản trở cuộc tiến hoá của dân tộc”, tựu trung là rơi vào âm mưu của phát-xít Nhật với thuyết đại Đông Á của chúng.(5) “Những tác phẩm và những bài nghiên cứu các chiến công oanh liệt của những anh hùng cứu quốc thời xưa không phải để kích thích và nung nấu tinh thần quật khởi mà, trái lại, để hòng chia rẽ hai dân tộc Hoa-Việt khỏi thành một khối duy nhất chống phát-xít. Đại biểu cho phong trào này là nhóm Tri tân”.(6)

Mặc dầu về khách quan, tạp chí Tri tân đã góp phần không nhỏ vào việc gây dựng lại tinh thần phục hưng dân tộc, chuẩn bị về tinh thần, tư tưởng cho thế hệ thanh niên sẽ tham gia cách mạng và kháng chiến cứu nước,(7) nhưng sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, chính tạp chí Tri tân lại tỏ ra không thích hợp trong đời sống văn hoá những năm đầu dưới chính thể mới. Cuối tháng 11/1945, tạp chí ngừng lại sau số 212. Nửa năm sau, vào giữa tháng 6/1946, Tri tân loại mới ra mắt số 1 bằng chuyên về Nam Bộ đất Việt Nam do Long Điền biên tập; mười ngày sau ra tiếp số 2, rồi sau đó ngừng hẳn. Hầu hết những người chủ trương Tri tân hoặc từng cộng tác với tuần san này đều hăng hái tham gia các hoạt động kháng chiến kiến quốc.

Trong khi đó, những gì mà Tri tân với các thành viên và cộng tác viên của nó đã làm, thì hoặc là bị lãng quên, hoặc chỉ được nhắc tới trong chiều hướng phê phán.

Cố nhiên phải nhận rằng, trong khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam, đề tài về lịch sử hoạt động của những tờ báo, tạp chí từng có vai trò trong từng thời gian lịch sử của xã hội và văn hoá Việt Nam, cho đến tận gần đây, vẫn chưa trở thành đối tượng nghiên cứu chuyên biệt của các công trình nghiên cứu sử học. Các tác giả, tác phẩm văn học thường chỉ được giới nghiên cứu văn học tiếp cận ở dạng tách rời môi trường báo chí và sách in vốn là nơi chúng xuất hiện và đến với công chúng. Trong tình trạng các thiết chế đặc trưng cho hoạt động văn học hiện đại (ít nhất đối với Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đầu XX) là báo chí và xuất bản còn chưa lọt vào trường nhìn của giới nghiên cứu, thì không chỉ Tri tân mà một loạt tờ báo, tạp chí, nhà xuất bản từng góp sức đáng kể vào đời sống văn hoá, văn học những thời gian khác nhau, đôi khi chỉ còn xuất hiện như những ký tự mờ nghĩa, đến nỗi cái tên cũng bị nhớ sai viết sai, trong phần ghi chú của một số bài vở nghiên cứu, thông tin.

Bước vào những năm 1990, do nhiều thúc đẩy khác nhau: chuyển biến của đời sống kinh tế, sự xuất hiện và phát triển của kinh tế du lịch, sự phát triển đột biến của báo chí và các phương tiện truyền thông, những thay đổi ít nhiều về quan điểm đánh giá đối với một số triều đại (ví dụ nhà Mạc, nhà Hồ, nhà Nguyễn) và một số giá trị của quá khứ dân tộc (ví dụ việc thờ phụng gắn với tín ngưỡng dân gian hoặc tôn giáo…) từ phía lãnh đạo Đảng và cơ quan quản lý của Nhà nước, sự phát triển của các cơ sở nghiên cứu, bảo tồn văn hoá và các ngành học xã hội nhân văn ở bậc đại học, v.v… − các thực thể lịch sử văn hoá của quá khứ dần dần thoát khỏi sự kỳ thị, có thể được tiếp cận tìm hiểu khai thác dễ dàng hơn. Tuy vậy, cũng từ đây, người ta mới nhận ra rõ ràng hơn về tình trạng hư nát, mất mát trầm trọng các nguồn tư liệu tại các trung tâm lưu trữ lớn hoặc nhỏ. Công việc sưu tập, bảo tồn được đặt ra với những đối tượng tư liệu cụ thể.

Với riêng tạp chí Tri tân, đã thấy xuất hiện một cuốn biên khảo kê biên phân tích mục lục tạp chí này và vài ba sưu tập khai thác vốn bài vở đã đăng trên Tri tân, đó là:

Mục lục phân tích tạp chí TRI TÂN 1941-45, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên biên soạn, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xb., Hà Nội, 1998.

− Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố: Đại Nam dật sử. Sử ta so với sử Tàu /Hà Văn Tấn giới thiệu/ Hội Khoa học lịch sử Việt Nam xb., Hà Nội, 1997; 523 trang 20x14cm.

Tạp chí “Tri tân” 1941-45: Phê bình văn học. Sưu tập tư liệu /Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và biên soạn/ Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 1999; 619 trang 20x14cm.

Tạp chí “Tri tân” 1941-45: Truyện và ký. Sưu tập tư liệu/ Lại Nguyên Ân và Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và biên soạn/ Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 2000; 884 trang 20x14cm.

Tạp chí Tri tân 1941-46: Các bài viết về lịch sử và văn hóa Việt Nam /Nguyễn Quang Ân, Phạm Đình Nhân, Phạm Hồng Toàn sưu tầm và tuyển chọn/ Hà Nội: Trung tâm thông tin tư liệu lịch sử & văn hóa VN xb., 2000; 591 trang 27x19cm.

Tuy vậy, các sưu tập trên đây cũng chỉ mới khai thác một phần nhỏ so với dung lượng bài vở các loại mà Tri tân đã đăng tải trong suốt hơn 5 năm hoạt động của nó. Ấy là chưa kể đến những sai lệch có thể phát sinh trong quá trình thực hiện các sưu tập.

Trong điều kiện kỹ thuật hiện nay, thiết nghĩ sẽ là tốt hơn nếu chúng ta có thể đưa tới cho mỗi ai cần tìm tòi một sưu tập đầy đủ tạp chí Tri tân dưới dạng ảnh chụp từng trang của tất cả các số tạp chí đã in. Đĩa CD Tri tân này do Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp thực hiện, chính là theo hướng đó.

Đây sẽ là cơ sở cho các nhà nghiên cứu thuộc các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn khác nhau tiếp cận kỹ lưỡng nhất ở mức có thể đối với những gì từng đăng tải trên tạp chí Tri tân.

Trân trọng giới thiệu cùng các bạn.

Hà Nội, ngày 20/9/2008

Lại Nguyên Ân

VỀ MỘT SỐ TÁC GIẢ CHÍNH ĐÃ ĐĂNG BÀI TRÊN TRI TÂN

● Nguyễn Tường Phượng (1899 - 1974), biệt hiệu Mai Lâm, bút danh Tiên Đàm; quê xã Vân Tương (nay thuộc thị trấn Lim) huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh; làm báo, dạy học, khảo cứu văn hóa. Những năm 1941-46 làm chủ nhiệm tạp chí Tri tân; tác giả nhiều bài đăng Tri tân.

● Dương Tụ Quán (1901 - 69) tự Khái Sinh; là em ruột Dương Bá Trạc và Dương Quảng Hàm; từng là nhà giáo, từ 1929 thôi dạy học, mở nhà in Đông Tây, từng đứng chủ trương nhiều tờ báo: Văn học tạp chí (1932-33), Đông Tây báo (1934-35), Ngày mai (1939), là người sáng lập kiêm quản lý (1941-45) tạp chí Tri tân; tác giả một số bài đăng Tri tân.

● Phạm Mạnh Phan (1914 – ?), còn có bút hiệu Tri Lễ, Mạnh Phan; quê làng Bạch Mai huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông, nay là phường Bạch Mai quận Hai Bà Trưng, Hà Nội; theo chính lời ông, ông là thư ký tòa soạn Tri tân từ số đầu đến số cuối (chức danh này không in trên manchette tờ báo). Sau 1954 làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam cho đến lúc nghỉ hưu.

● Nguyễn Văn Tố (1889 – 1947), hiệu Ứng Hòe, sinh ở Hà Nội; học chữ Nho, sau vào học trường Thông ngôn, tốt nghiệp, vào làm việc tại Học viện Viễn Đông Bác Cổ (École Franҫaise d’ Extrême Orient); là nhà hoạt động xã hội: Hội trưởng hội Trí tri, Hội trưởng hội Truyền bá chữ Quốc ngữ; là học giả có uy tín, tác giả nhiều chuyên khảo về sử học, văn hóa học đăng trên các chuyên san chữ Việt hoặc chữ Pháp (tập san của hội Trí tri, của học viện EFEO, báo Đông thanh, các tạp chí Tri tân, Thanh nghị). Sau cách mạng tháng 8/1945, là Bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời; đại biểu Quốc hội; quyền Chủ tịch Quốc hội khóa I, Quốc vụ khanh trong Chính phủ liên hiệp quốc dân. Bị quân Pháp bắt giết tại Bắc Cạn ngày 7/10/1947 trong một trận nhảy dù tập kích vào chiến khu.

● Hoa Bằng ( 1902 – 77), họ tên thật Hoàng Thúc Trâm, quê ở thôn Yên Quyết xã Yên Hòa, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội); bước vào làng báo lúc 22 tuổi, cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo, Tao đàn, Nước Nam, Tri tân, Thanh nghị; từ sau 1954 làm việc ở Viện Sử học, sau đó chuyển sang ban Hán Nôm thuộc UBKHXHVN. Đã xuất bản các sách biên khảo: Quang Trung (1944), Hồ Xuân Hương (1950), Văn chương quốc văn đời Tây Sơn (1952), Lý Văn Phức (1953), Khảo luận về truyện Thạch Sanh (1957), v.v…; ông cũng viết tiểu thuyết lịch sử : Dương hậu (1949); tham gia dịch và hiệu đính bản dịch các bộ sách Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục

● Lê Thanh (1913 - 44) họ tên thật Nguyễn Văn Thanh, còn có bút danh Khiết Phủ, quê làng Cam Đà huyện Tùng Thiện tỉnh Sơn Tây; thuở nhỏ theo chú ruột sang sinh sống và học hành ở Lào; từ giữa những năm 1930 sống ở Hà Nội, vừa làm công chức vừa viết báo viết văn, từng tham gia biên tập hoặc cộng tác với các báo Tin văn, Bắc Hà, Phụ nữ, Tri tân; đã xuất bản hai tiểu thuyết Li dị, Những nấm mộ của thanh niên (1938), các sách nghiên cứu và phê bình văn học: Thi sĩ Tản Đà (1939), Văn nhân thi sĩ hiện đại. Tú Mỡ (1942), Cuộc phỏng vấn các nhà văn (1943), Trương Vĩnh Ký (1943), Cuốn sổ văn học (1944).

● Kiều Thanh Quế (1914 – 47) còn có các bút hiệu Tô Kiều Phương, Mộc Khuê, Nguyễn Văn Hai; quê huyện Đất Đỏ tỉnh Bà Rịa. 1940 bị chính quyền thực dân cưỡng bức di trú, buộc sống tại Cần Thơ; 1942 mãn hạn, về sống ở Sài Gòn. 1945 tham gia kháng chiến, hy sinh khoảng cuối 1947. Kiều Thanh Quế tham gia Tri tân với tư cách cộng tác viên từ xa. Vào nghề văn với các tiểu thuyết Hai mươi tuổi (1940), Nam mô a di đà phật (1941), Đứa con của tội ác (1941) không có tiếng vang; sau chuyển sang làm phê bình khảo cứu; ngoài các bài đăng báo, đã xuất bản: Ba mươi năm văn học (1941), Phê bình văn học (19942), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam (1943), Đàn bà và nhà văn (1943), Học thuyết Freud (1943), Thi hào Tagore (1943), Cuộc vận động cứu nước trong ‘Việt Nam vong quốc sử’ (1945), Vũ Trọng Phụng và chủ nghĩa tả thiệt xã hội (1945).

● Trần Huy Bá (1901 - 87) bút hiệu Biệt Lam, quê Vụ Bản, huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam. Tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương (1924), khảo cứu văn hóa, mỹ thuật.

● Hoàng Thiếu Sơn (1920 – 2005) sinh ở Quảng Bình, học trường Quốc học Huế, trường Albert Sarraut Hà Nội, đại học luật Hà Nội. Từng là Thư ký tòa soạn báo France-Annam ở Huế (1939-40), chủ bút báo Tràng An ở Huế (1941-42). Sau 1945 làm việc ở bộ giáo dục (1946-49). Sau 1954 giảng dạy môn địa lý ở Đại học sư phạm Hà Nội cho đến khi nghỉ hưu. Đã xuất bản một số sách biên khảo địa lý: Địa lý đại cương tự nhiên (1965), Thế giới động vật (1980), một số tác phẩm dịch thuật: Những linh hồn chết (1985, dịch của N. Gogol), Truyện cổ Yơxta Becling (1974, dịch tiểu thuyết của Selma Lagerlof), v.v…

● Chu Thiên (1913 – 92) họ tên thật Hoàng Minh Giám, còn ký các bút danh Hoàng Minh, Minh Giám; quê xã Yên Thành huyện Ý Yên tỉnh Nam Định; từ 1938 vừa dạy học tư vừa viết văn tại Hà Nội; cộng tác với Tri tân chủ yếu bằng các tiểu thuyết lịch sử đăng nhiều kỳ. Sau 1945 làm việc ở Ủy ban hành chính huyện Ý Yên, làm biên tập báo Nam Định kháng chiến; từ 1949 dạy học tại các trường trung học phổ thông tỉnh Hà Nam, từ 1955 giảng dạy tại trường đại học tổng hợp Hà Nội cho đến khi nghỉ hưu. Đã xuất bản: Lê Thái Tổ (1941), Bà quận Mỹ (1942), Bút nghiên (1942), Nhà nho (1943), Tuyết Giang phu tử (1945), Chính trị Hồ Quý Ly (1945), Khí tiết : Tức là khí tiết của dân tộc Việt Nam qua các thời đại (1944), giá trị cách mạng Phan Bội Châu (1946), Chống quân Nguyên : Lịch sử kháng chiến đời Trần (1957), Bóng nước hồ Gươm (1970), v.v…

● Khuông Việt (? - ?) họ tên thật Nguyễn Khuông Việt, quê ở Sa Đéc tỉnh Cần Thơ, tham gia Tri tân với tư cách cộng tác viên từ tỉnh xa.

● Lê Văn Ngôn (1900 – 76) quê tỉnh Bến Tre, từng du học sang Pháp, bác sĩ y khoa, viết nhiều sách báo về y học và văn học.

● Liên Giang (1897 - 1979), họ tên thật Ngô Quý Tiếp, quê làng Dâu, Đông Anh, Hà Nội; viên chức, nghiên cứu Đông y, biên khảo văn học.

● Mãn Khánh Dương Kỵ (? - ?) quê ở Huế, viết khảo cứu văn hóa, địa lý lịch sử.

● Mộng Tuyết (1914 – 2007) họ tên thật Thái Thị Út, ký nhiều bút danh: Thái Nữ, Mộng Tuyết, Hà Tiên Cô, Thất Tiểu Muội, Bách Thảo Sương, Nàng Út; là vợ nhà thơ Đông Hồ; lafm thơ, viết truyện, biên khảo; đã xuất bản: Phấn hương rừng (1939), Đường vào Hà Tiên (1960), Nàng Ái Cơ trong chậu úp (1969), Truyện cổ Đông Tây (1969), Dưới mái trăng non (1969), Núi mộng gương hồ (1998).

● Ngân Giang (1916 – 2002), họ tên thật Đỗ Thị Quế, quê huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây; làm thơ, viết báo từ những năm 1930; đã in: Giọt lệ xuân (1931), Tiếng vọng sông Ngân (1944), Thơ Ngân Giang (1994, 1996)

● Trịnh Như Tấu (1915 - 1947) hiệu Nhật Nham, quê làng Thương, tổng Thọ Xương, phủ Lạng Thương (nay thuộc tỉnh Bắc Giang); học trường Bưởi, đỗ tú tài, thi tuyển vào làm nhân viên tham tán toà sứ Bắc Giang, sau đó được điều động tới các toà sứ Hà Nam, Hưng Yên và Lào Cai (đầu những năm 1930)… 1941-1945, là tham tá tại ty kiểm duyệt báo chí Bắc Kỳ. Ông tham gia Tri tân với tư cách biên tập viên. Sau 1945 là đại biểu Quốc hội VNDCCH khoá 1, mất năm 1947 ở Việt Bắc. Đã xuất bản: Trịnh gia chính phả (1933), Phật giáo với thuyết luân hồi (1935), Bắc Giang địa chí (1937), Hưng Yên địa chí (1937).


(1) Sách Luận ngữ có câu: “Ôn cố nhi tri tân, khả vi sư hĩ”; nghĩa là: Ôn lại những điều cũ mà biết được điều mới, có thể làm thầy được vậy. SáchTrung Dung có câu:Ôn cố nhi tri tân, đôn hậu dĩ sùng lễ”; nghĩa là: Ôn lại việc đời xưa mà biết việc đời nay, đắp dày nền nhân mà sùng kính lễ.

(2) Về số lượng in (tirage) từng số Tri tân, tôi (L.N. Â.) mới chỉ tìm được tài liệu của hai năm cuối: suốt năm 1945: mỗi số in 3000 bản (exemplaires); 2 số năm 1946: mỗi số in 1500 bản. Thông thường, các bản in nộp lưu chiểu (dépot légal) có đóng dấu nhà in với lời khai số lượng in bằng chữ viết tay của viên quản lý tờ báo (gérant), nhưng trong bộ sưu tập Tri tân hiện còn lưu tại Thư viện Quốc gia ở Hà Nội, thực tế chỉ có các số Tri tân từ đầu năm 1945 là bản nộp lưu chiểu, còn lại các phần khác trong bộ sưu tập ở đây đều thuộc loại sách báo bổ sung sau này, thường là mua lại từ nguồn sách báo cũ ngoài thị trường, không phải bản nộp lưu chiểu nên không có dấu hiệu ký nhận về số lượng in mỗi số báo).

(3) Tô Hoài: Những gương mặt, (tập chân dung văn học), in lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 1995, tr. 290.

(4) Tr. Ch.: Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hoá Việt Nam mới lúc này // Tiên phong, số 2, ngày 1/12/1945.

(5) Nguyễn Đình Thi: Dưới ánh sáng cứu quốc, xét qua văn hoá Việt Nam trong sáu năm chiến tranh 1939-1945 // Tiên phong, số 1, ngày 10/11/1945, tr. 8, 9.

(6) Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi: Một nền văn hoá mới, Hội Văn hoá Cứu quốc Việt Nam (trong Mặt trận Việt Minh) xb., Hà Nội, 1945, tr. 12.

(7) Xem: Đinh Xuân Lâm: Lời giới thiệu, trong sách Mục lục phân tích tạp chí TRI TÂN 1941-45, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên biên soạn, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xb., Hà Nội, 1998, tr.4.



DOW LOAD


bao Tri Tan part 01 : http://www.megaupload.com/?d=PLWZXRWN
bao Tri Tan part 02 : http://www.megaupload.com/?d=9B2OC1WJ
bao Tri Tan part 03 : http://www.megaupload.com/?d=KT50GUOU
bao Tri Tan part 04 : http://www.megaupload.com/?d=ZKSGUCCZ
bao Tri Tan part 05 : http://www.megaupload.com/?d=RL6TL6T2
bao Tri Tan part 06 : http://www.megaupload.com/?d=1LNVEADB
bao Tri Tan part 07 : http://www.megaupload.com/?d=KL1SF546
bao Tri Tan part 08 : http://www.megaupload.com/?d=MPFAV5AG
bao Tri Tan part 09 : http://www.megaupload.com/?d=90YSYOTL
bao Tri Tan part 10 : http://www.megaupload.com/?d=MPB54M6E
bao Tri Tan part 11 : http://www.megaupload.com/?d=YWXUZ9RD
bao Tri Tan part 12 : http://www.megaupload.com/?d=ED50PD91

Tài liệunghiên cứu về dân tộc Việt Nam

Nguồn gốc Mã lai của dân tộc việt Nam (Đây là trang của tác giả, có thể tải bản số hóa tại đó)

Phóng to


Đánh giá: em mới đọc qua một ít đánh giá của em là cuốn này khá hay, tuy nhiên không có nhiều cứ liệu lịch sử vững chắc. Phần đầu hơi đả phá Kim định về Văn hóa Đông sơn, phần giữa đả phá Nguyễn Phương về nguồn gốc Tàu của dân tộc Việt Nam.

2. Mẫu hệ Chàm (đã có bản số hóa)

Phóng to


Cuốn này em mới kiếm được và mới đọc lướt qua nên chưa bình luận gì cả.
Show cái mục lục để các bác xem qua.

Phóng to


Phóng to


Phóng to


Đi tìm An Dương Vương - Mỵ Châu - Trọng Thủy từ lịch sử đến truyền thuyết. (Đang số hóa)
Lê Văn Hảo - Trình bày xuất bản 1966

Phóng to


Mục lục

Phóng to


Phóng to


Phóng to


Cuốn Hành trình vào dân tộc học Tập I (Đang số hóa)
Lê Văn Hảo - Nam Sơn xuất bản 1966

Phóng to


Mục lục

Phóng to


Phóng to


Lê Văn Hảo viết chung với Trần Quốc Vượng và Dương Tất Từ
Mùa xuân và phong tục Việt Nam, XB năm 1976 của NXB Văn hóa.
Phóng to

Bác Dê thử kiểm tra cho em xem đây có phải là chữ ký của Lê Văn Hảo ko?
Phóng to


Cuốn Người việt gốc Miên - Lê Hương Xuất bản 1961
Không mua được sách thật đành mua sách Photo phục vụ châm cứu vậy!

Phóng to


Tìm hiểu nguồn gốc dân tộc việt nam qua di truyền học - Nguyễn Văn Tuấn

Tài liệu download tại đây.

http://www.vista.gov.vn/pls/portal/docs/1/233912.JPG


Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng phương Ðông của Oppenheimer - Nguyễn Quang Trọng

Trang chuyên về nguồn gốc dân tộc việt

Thứ Sáu, 8 tháng 1, 2010

NHÀ BÁO HIỆN ĐẠI


Cuốn Nhà báo hiện đại bạn đang cầm trên tay là bản dịch tiếng Việt đầu tiên của giáo trình nổi tiếng News Reporting and Writing của ban biên soạn The Missouri Group thuộc Khoa báo chí Đại học Missouri.

Nhiều nhà báo Mỹ đoạt giải Pulitzer đã xuất thân từ Khoa báo chí của đại học này. Một trong những bí quyết giúp họ thành công trong sự nghiệp chính là nhờ cuốn giáo trình đã có 25 tuổi đời với 8 lần chỉnh biên, cập nhật cho phù hợp với xu thế phát triển của báo chí thế giới.

Với bản chỉnh biên mới nhất, Nhà báo hiện đại là cẩm nang dạy nghề cho những nhà báo của thế kỷ 21 – thế kỷ bùng nổ thông tin khi máy tính, mạng Internet, các phương tiện truyền thông trực tuyến đã trở thành những công cụ không thể thiếu của những phóng viên thế hệ mới. Xu hướng tích hợp báo in, truyền hình và báo trực tuyến chung một tòa soạn đang phổ biến trên thế giới đã buộc những người làm báo phải đa năng hơn xưa bội phần và báo chí buộc phải thay đổi cách xử lý thông tin nếu không muốn xa rời công chúng. Cả giáo trình giảng dạy báo chí cũng phải thay đổi.


Tính hiện đại của giáo trình này thể hiện rõ qua những chương hướng dẫn bằng các ví dụ cụ thể cách tác nghiệp với sự hỗ trợ của máy tính và những cơ sở dữ liệu trên mạng Internet. Cách làm tin và viết tin cho báo trực tuyến cũng được hướng dẫn cặn kẽ bên cạnh những phương pháp truyền thống cho báo in và truyền hình được cách tân theo nhu cầu mới của thời đại. Những kỹ thuật cốt lõi của nghề báo như cách chuẩn bị và xúc tiến một cuộc phỏng vấn, cách xử lý và thông tin những số liệu, cách giải quyết những thông cáo báo chí... đều được trình bày chi tiết dựa trên kinh nghiệm thực tế. Các thể loại báo chí kinh điển cũng được hướng dẫn theo quan điểm mới từ những bản tin thời sự cho đến tường thuật thể thao và phóng sự điều tra.
Một số chương trong nguyên bản đã được nhóm biên dịch lược bỏ trong lần xuất bản đầu tiên này vì xét thấy chưa phù hợp với thực tế báo chí nước nhà và dị biệt so với những quy định pháp lý trong nước liên quan đến báo chí và nhà báo. Tuy nhiên, tất cả những bí quyết nhà nghề của một phóng viên chuyên nghiệp đều được chuyển tải đầy đủ. Mọi nhà báo đúng nghĩa của thời đại mới đều phải làm chủ được những kỹ năng tác nghiệp này và dù ở phương Tây hay ở Việt Nam, mọi nhà báo có trách nhiệm đều lấy việc phục vụ cộng đồng, phục vụ nhân dân làm tôn chỉ.


Cuốn sách này không chỉ cần thiết cho các bạn sinh viên đang theo học khoa ngữ văn-báo chí, những phóng viên trẻ mới vào nghề, những người muốn tìm hiểu nghề báo mà còn cần thiết cho cả những người làm quan hệ công chúng (public relations) vốn luôn có quan hệ mật thiết với báo giới. Những người làm công tác giảng dạy cũng sẽ có một tài liệu tham khảo giá trị vốn rất hiếm hoi trong thực tế ở nước ta. Những nhà báo kinh nghiệm hay những người lãnh đạo các cơ quan báo chí cũng sẽ rút tỉa được nhiều bài học thực tiễn quý báu từ cuốn sách này để gợi mở cho những xu hướng đổi mới.


Là những người đang làm báo và giảng dạy báo chí, bản thân chúng tôi cũng đã học hỏi được rất nhiều bài học quý báu cho nghề nghiệp trong quá trình biên dịch – những bài học nhiều khi phải trả giá bằng sự tự do hay sinh mệnh. Chúng tôi hy vọng khi đọc cuốn sách này, các sinh viên, đồng nghiệp và độc giả quan tâm đến báo chí, cũng sẽ hứng thú như chúng tôi khi biên dịch trước những điều mới lạ mà các nhà báo lão luyện trong nhóm The Missouri Group đã dốc tâm truyền đạt. Muốn hiện đại thì không thể làm theo cách cũ. Muốn hiện đại thì phải đổi mới. Nhà báo hiện đại là cuốn sách dành cho những nhà báo hiện tại và tương lai có cùng suy nghĩ đó.


Nhà báo TRẦN ĐỨC TÀI


#Tựa đềSố lần xem
1Lời giới thiệu - Nhà báo hiện đại 132
2Nghề báo và nhà báo 172
3Tin tức là gì 155
4Công chúng thay đổi, báo chí thay đổi 134
5Công chúng mới 75
6Nghề báo mới 88
7Tính chính xác, công bằng và khách quan 199
8Nhà báo không ngừng thay đổi 108
9Sự phát triển của các tổ chức truyền thông đa phương tiện 246
10Báo in 117
11Sản xuất báo in 101
12Làm việc với biên tập viên ngôn ngữ 192
13Tạp chí và báo chuyên ngành 131
14Bản tin 77
15Truyền hình 220
16Truyền thông trực tuyến 72
17Tổ chức truyền thông trực tuyến 73
18Sản xuất báo chí trực tuyến 122
19Những cơ hội nghề nghiệp khác 61
20Phần hai: Công cụ tường thuật 205
21Chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn 143
22Cân nhắc thể loại 64
23Những bước chuẩn bị khác 75
24Đặt câu hỏi 103
25Câu hỏi mở 121
26Câu hỏi đóng 93
27Tạo mối quan hệ 65
28Cách tiếp cận phỏng vấn 181
29Những điều cần lưu ý khác 64
30Đảm bảo sự chính xác 68
31Quan sát 51
32Tìm hiểu 53
33Đặt những câu hỏi đào sâu vấn đề 73
34Những kỹ thuật khác 60
35Chương 4: Trích dẫn đối tượng 60
36Điều gì nên trích dẫn trực tiếp 90
37Diễn đạt độc đáo 60
38Trích dẫn lời nói hay của những nhân vật quan trọng 192
39Kiểm chứng 58
40Những vấn đề trong trích dẫn trực tiếp 60
41Trích dẫn không trọn câu 55
42Thể hiện phương ngữ 78
43Trộn lẫn các câu hỏi đáp 84
44Loại bỏ những từ ngữ bậy bạ, tục tĩu, thô thiển 100
45Tránh trích dẫn gán ghép 59
46Xem lại trước khi xuất bản 51
47Khi nào nêu rõ nguồn 61
48Bằng cách nào 66
49Xử lý thông tin có và không có ghi âm 84
50Chương 5: Thu thập thông tin 148
51Nguồn thông tin truyền thống 70
52Các thông tin truyền thông khác 61
53Dịch vụ thông tin công cộng 54
54Internet: Siêu xa lộ thông tin 120
55Thư viện thông tin: nơi bắt đầu 55
56Dịch vụ kinh doanh cơ sở dữ liệu 96
57Cơ sở dữ liệu tự tạo 67
58Nguồn tin từ dữ liệu máy tính

Để báo giới trích dẫn lời bạn

de_bao_gioi_trich_dan_loi_ban.jpg

Giới thiệu sách: Để báo giới trích dẫn lời bạn mô tả những kỹ năng để bạn có được một buổi phỏng vấn thành công dưới bất kỳ hình thức nào, từ cuộc viếng thăm văn phòng bạn rất bất ngờ của một nhà báo kinh tế, một cuộc điện thoại mong muốn hoặc không mong muốn từ các tạp chí hoặc các thời báo, một cuộc phỏng vấn do đài truyền thanh thực hiện, đến các buổi truyền hình trực tiếp hoặc không trực tiếp...Qua cuốn sách này, bạn sẽ hiểu được các nhà báo làm việc như thế nào và cách bạn làm việc với nhà báo để đạt được hiệu quả, đem lại lợi ích cho cả hai bên. Vấn đề cốt lõi của cuốn sách là giúp bạn hiểu được nhà báo muốn gì, tại sao họ muốn điều đó, và cách bạn cung cấp thông tin cho nhà báo để đáp ứng được nhu cầu của họ. Đây là công cụ để bạn thiết lập và duy trì mối quan hệ lâu dài, hữu ích với các nhà báo.

Một cuốn sách hướng dẫn thực tế, hữu ích để bạn làm việc với giới truyền thông.



Trích đoạn sách hay:

"Chúng ta không nói đến quảng cáo ở đây.

Bạn có thể mua được tin bài hoặc quảng cáo tại một số cơ quan truyền thông. Nhưng sẽ phản tác dụng nếu muốn gây ảnh hưởng đến nhà báo bằng việc nói về chi phí quảng cáo của công ty bạn.

Phần lớn nếu không muốn nói là tất cả các nhà báo tin rằng họ được thuê để bày tỏ quan điểm khách quan về chủ đề của họ. Từ "khách quan" đủ để người ta viết một cuốn sách về nó, và chúng ta có thể lấp đầy những đoạn trống bằng việc tranh luận xem liệu các phóng viên có sâu sắc và thông minh như họ nghĩ không. Nhưng nguyên tắc chung là tiếp cận với bất kỳ phương tiện truyền thông nào thì về cơ bản nhà báo thường có quyền quyết định sử dụng thông tin bạn cung cấp theo cách của họ.

Và cuối cùng là... doanh nghiệp thân thiện với giới truyền thông

Doanh nghiệp thân thiện với giới truyền thông là luôn có nhân viên nghe điện thoại và gọi lại các cuộc nhỡ trong vòng một giờ, hoặc ngay cả khi cầm máy của người khác, họ có thể cung cấp thông tin hữu ích nếu không tìm được người phụ trách. Tại các doanh nghiệp này, các bộ phận hỗ trợ, lễ tân, chuyên viên quan hệ công chúng và những nhân viên hỗ trợ khác đều có quyền gọi phát ngôn viên chính thức ra khỏi cuộc họp để nghe điện thoại của các nhà báo, và không có ai trong công ty từng bị phê bình vì những ý kiến của họ được trích dẫn. Nếu có căng thẳng hay tranh cãi nội bộ, nó cũng không lộ ra ngoài.

Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa tồn tại các doanh nghiệp thân thiết với giới truyền thông.»

Về tác giả: William Essex là phóng viên tự do, nhà văn và đôi khi ông còn làm công việc của một người làm truyền hình, người hướng dẫn các nhà điều hành doanh nghiệp cách thức làm việc với giới truyền thông. Ông có kinh nghiệm đứng trước và đứng sau mày quay, sử dụng micro và giấy ghi chép và cả các thiết bị ghi âm kỹ thuật số, và ông thích tin rằng để thành công trong việc hợp tác với giới truyền thông thì không nhất thiết phải quá căng thẳng. Bạn chỉ cần biết họ muốn những thông tin gì và làm sao để cung cấp những thông tin đó theo cách mà bạn cũng muốn.

William Essex đang sống ở Cornwall với vợ và bốn người con. Ông phân chia thời gian cho gia đình, cho các hãng truyền thông mà ông viết bài và cho các công ty mà ông phụ trách quan hệ truyền thông cho các giám đốc điều hành.


Dow load ebook English: Here

Handbook of Independent Journalism

Nguyên tác: Handbook of Independent Journalism
Tác giả: Deborah Potter
Thể loại: Sách tham khảo
Nhà xuất bản: Văn Hóa - Thông Tin
Ngày xuất bản: Tháng 10/2006
Số trang: 120
Kích thước: 13,5 x 21 cm
Số quyển / 1 bộ: 1
Hình thức bìa: Bìa mềm
Nguồn: http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov


Lời Nhà xuất bản

Nghề báo là một nghề luôn được đánh giá cao ngay từ khi mới ra đời. Mục đích quan trọng nhất của nghề báo là cung cấp cho bạn đọc những thông tin thời sự chính xác và đáng tin cậy mà họ cần để có thể hành xử tốt nhất trong cuộc sống xã hội.

Tuy nhiên, do môi trường kinh tế, môi trường dân tộc, môi trường chính trị... mỗi quốc gia khác nhau nên nghề báo mỗi nơi đều có những đặc thù riêng. Năm 1996, Tổ chức Các nhà báo chuyên nghiệp Mỹ đã loại bỏ khái niệm “khách quan” ra khỏi những nguyên tắc đạo đức của mình. Họ cho rằng nhà báo Mỹ là con người và đã là con người thì phải có những quan điểm cá nhân. Cho nên người làm báo càng phải cẩn trọng trong nghề để đưa ra những thông tin hữu ích cho dân tộc mình, quốc gia mình và cho nhân loại.

Cuốn “Hướng dẫn nghề làm báo độc lập” của tác giả Deborah Potter, Giám đốc điều hành của Newslab (www.newslab.org) - Trung tâm dữ liệu trực tuyến dành cho các nhà báo tại Washington DC, đồng thời là giảng viên báo chí tại Viện Poyuter và trường Đại học Hoa Kỳ là một loại sách “giáo khoa” báo chí theo những quan điểm của Mỹ.

Nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế với thế giới, việc người đọc Việt Nam tiếp xúc với những thông tin báo chí Mỹ, các nhà báo Việt Nam gặp gỡ các nhà báo Mỹ, tiếp xúc với hệ thống báo chí Mỹ hoặc sang Mỹ tác nghiệp cũng là chuyện bình thường.

Xuất bản cuốn sách này, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin muốn giới thiệu cùng bạn đọc ngoài những phương thức chung nhất của nghề báo, còn muốn đề cập tới những nét riêng của nghề báo Mỹ. Đây chỉ là cuốn sách mang tính tham khảo và nhiều quan điểm trong sách còn phải bàn luận thêm.

Hy vọng bạn đọc tìm thấy trong cuốn sách này những điều bổ ích phù hợp với đất nước ta.

Tháng 10 năm 2006
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN



Tác giả

Deborah Potter là giám đốc điều hành của NewsLab (www.newslab.org), một trung tâm dữ liệu trực tuyến dành cho các nhà báo ở thủ đô Washington, D.C., được bà thành lập năm 1998. Bà đã dạy môn báo chí với tư cách là giảng viên tại Viện Poynter và tại trường Đại học Hoa Kỳ. Bà cũng đã từng là giám đốc điều hành của Tổ chức các Giám đốc Tin tức của các Đài Phát thanh và Truyền hình. Potter là người chỉ đạo tổ chức các hội thảo cho các nhà báo trên khắp nước Mỹ và trên thế giới. Bà là cây viết được đánh giá cao về các chuyên mục tin tức trên tờ American Journalism Review và là tác giả của Hãy sẵn sàng, Xác định vị trí, và Lãnh đạo: Hướng dẫn cho các Nhà lãnh đạo Tin tức.

Potter đã có hơn 20 năm làm việc tại các chương trình tin tức trên đài truyền hình, bao gồm 16 chương trình với tư cách là phóng viên mạng cho chương trình tin tức trên CBS và CNN, chuyên về các vấn đề trong Nhà Trắng, Bộ Ngoại Giao, Quốc hội, chính trị quốc gia, và môi trường. Bà cũng là người dẫn chương trình trên loạt chương trình “In the Prime” của Đài truyền hình PBS. Bà có bằng Cử nhân của trường Đại học Bắc Carolina ở Chapel Hill và đã tốt nghiệp thạc sĩ ở trường Đại học Hoa Kỳ. File Kèm Theo
File Type: rar Huong Dan Lam Nghe Bao Doc Lap.rar (213.5 KB, 708 lần tải)